Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Phó Thủ tướng Lê Thành Long ký Quyết định số 1705/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Mục tiêu của Chiến lược nhằm phát triển giáo dục Việt Nam hiện đại, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn minh nhân loại, phát triển toàn diện con người Việt Nam, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên mới, chủ động tham gia và thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các tiến bộ mới nhất của khoa học và công nghệ; chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, phát huy tối đa tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, tạo nền tảng cho việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đất nước phồn vinh và hạnh phúc.

Phát triển hệ thống giáo dục mở, đảm bảo công bằng và bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, phục vụ học tập suốt đời, theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa, hội nhập quốc tế. Đến năm 2030, giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của khu vực châu Á và đến năm 2045 đạt trình độ tiên tiến của thế giới.

Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi

Đối với giáo dục mầm non, Chiến lược đặt mục tiêu tiếp tục duy trì, củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; phấn đấu hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo. Tỷ lệ huy động trẻ đến trường đạt 38% trẻ em trong độ tuổi nhà trẻ và 97% trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo.

Phấn đấu có 99,5% trẻ em mầm non đến trường được học 2 buổi/ngày. Chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục được nâng cao, đảm bảo trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị vào học lớp 1.

100% giáo viên mầm non đạt chuẩn trình độ chuẩn được đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục.

Phấn đấu tỷ lệ trường mầm non dân lập, tư thục đạt 30%, số trẻ em theo học tại các cơ sở giáo dục mầm non dân lập, tư thục đạt 35%.

Phấn đấu 60% tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2

Đối với giáo dục phổ thông, duy trì vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; 75% các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3; 40% các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 3; 60% các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2.

Tỷ lệ hoàn thành cấp tiểu học đạt 99,7%, trung học cơ sở đạt 99% và hoàn thành cấp trung học phổ thông đạt 95%; tỷ lệ chuyển cấp từ tiểu học lên trung học cơ sở đạt 99,5%, từ trung học cơ sở lên trung học phổ thông và các trình độ khác đạt 95%; 100% học sinh tiểu học được học 2 buổi/ngày.

Phấn đấu số cơ sở giáo dục phổ thông tư thục đạt 5% và số học sinh theo học tại các cơ sở giáo dục phổ thông tư thục đạt 5,5%.

Phấn đấu tỷ lệ phòng học kiên cố cấp tiểu học, cấp trung học cơ sở, cấp trung học phổ thông đạt 100%; có 70% trường tiểu học, 75% trường trung học cơ sở và 55% trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia.

Mở rộng không gian phát triển và nâng cao năng lực các cơ sở giáo dục đại học

Về giáo dục đại học, số sinh viên đại học/vạn dân đạt ít nhất là 260, tỷ lệ sinh viên đại học trong nhóm độ tuổi 18 - 22 đạt ít nhất 33%, tỷ lệ sinh viên quốc tế theo học các chương trình giáo dục đại học tại Việt Nam đạt 1,5%; tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ đạt ít nhất 40%.

Dịch chuyển cơ cấu trình độ và ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế tri thức và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu; tỷ trọng quy mô đào tạo các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán (STEM) đạt 35%.

Mở rộng không gian phát triển và nâng cao năng lực cho các cơ sở giáo dục đại học, bảo đảm 100% cơ sở giáo dục đại học đạt chuẩn.

Có ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học được xếp hạng trong số 500 trường đại học tốt nhất thế giới, 5 cơ sở giáo dục đại học vào nhóm 200 trường đại học hàng đầu châu Á; Việt Nam nằm trong 4 quốc gia có hệ thống giáo dục đại học tốt nhất khu vực Đông Nam Á và trong 10 quốc gia có hệ thống giáo dục đại học tốt nhất châu Á.

Phấn đấu có 10 đơn vị hành chính tham gia vào Mạng lưới thành phố học tập toàn cầu của UNESCO vào năm 2030

Đối với giáo dục thường xuyên, phấn đấu tỷ lệ người biết chữ mức độ 1 trong độ tuổi từ 15 - 60 đạt 99,15%; trong đó tỷ lệ người biết chữ mức độ 1 trong độ tuổi từ 15 - 60 ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt 98,85%. Có 90% các tỉnh đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2.

Triển khai mô hình thành phố học tập trên toàn quốc; có ít nhất 50% huyện/quận/thị xã/thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được công nhận danh hiệu huyện/thành phố học tập và 35% các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được công nhận danh hiệu tỉnh, thành phố học tập. Phấn đấu có 10 đơn vị hành chính tham gia vào Mạng lưới thành phố học tập toàn cầu của UNESCO vào năm 2030.

10 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm

Chiến lược đưa ra 10 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để phấn đấu đạt được các mục tiêu trên gồm: Hoàn thiện thể chế; Đổi mới quản lý giáo dục và quản trị nhà trường; Thực hiện công bằng trong tiếp cận giáo dục; Phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập của người dân; Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục; Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; Bảo đảm nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất cho phát triển giáo dục; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và tăng cường chuyển đổi số trong giáo dục; Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trong các cơ sở giáo dục đại học; Tăng cường hội nhập quốc tế.

Tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học

Chiến lược có chính sách hỗ trợ trẻ dưới 36 tháng tuổi được vào học ở nhà trẻ, nhất là vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị đông dân cư; tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ cho người học là đối tượng chính sách xã hội, người dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trẻ mồ côi, trẻ em không nơi nương tựa, người khuyết tật, người thuộc hộ nghèo và hộ cận nghèo; chính sách tín dụng giáo dục, học bổng, trợ cấp xã hội cho người học; chính sách miễn, giảm học phí và hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt, tạo cơ hội học tập công bằng cho mọi người.

Phát triển hệ thống giáo dục theo hướng mở; linh hoạt, đa dạng hóa các mô hình đào tạo, chương trình giáo dục, phương thức học tập, ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số trong giáo dục để phù hợp với mọi đối tượng người học.

Thực hiện có hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông hướng đến phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực từng cá nhân người học; đẩy mạnh phương thức giáo dục tích hợp Khoa học, Kỹ thuật, Công nghệ, Toán học (STEM) và nghiên cứu khoa học trong trường phổ thông.

Tăng cường các nguồn lực đầu tư để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực các ngành đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nhất là các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ và các ngành mới như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, bán dẫn...

Theo baotintuc.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Rèn luyện kỹ năng ứng phó dưới nước cho học sinh

Rèn luyện kỹ năng ứng phó dưới nước cho học sinh

Miền Bắc vừa trải qua đợt lũ lụt lịch sử do hoàn lưu bão số 11 gây ra, công tác khắc phục hậu quả còn đang tiếp diễn thì "khúc ruột" miền Trung, từ TP Huế đến Quảng Ngãi lại chìm trong biển nước. Trong bối cảnh đó, một lần nữa, câu chuyện về khả năng ứng phó với thiên tai, đặc biệt là kỹ năng phòng, chống đuối nước cho học sinh lại khiến chúng ta phải suy ngẫm.

Đưa trí tuệ nhân tạo vào trong nhà trường

Đưa trí tuệ nhân tạo vào trong nhà trường

Theo các chuyên gia, đưa trí tuệ nhân tạo (AI) vào nhà trường sớm không chỉ là cập nhật công nghệ, mà là trang bị cho học sinh và giáo viên các năng lực cốt lõi của thời đại số: tư duy dữ liệu, giải quyết vấn đề, sáng tạo và thích ứng.

Chắp cánh ước mơ cho nhiều học sinh dân tộc thiểu số

Quỹ Học bổng Vừ A Dính: Chắp cánh ước mơ cho nhiều học sinh dân tộc thiểu số

26 năm qua, Quỹ Học bổng Vừ A Dính do Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh sáng lập đã dành nhiều sự yêu thương, quan tâm đặc biệt cho học sinh dân tộc thiểu số, học sinh có hoàn cảnh khó khăn trong cả nước. Tại Lào Cai, hành trình yêu thương đó đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt.

Sự học ở Khe Lóng 2

Sự học ở Khe Lóng 2

Sau khi trận lũ quét tàn phá điểm trường Khe Lóng 2, Trường Mầm non Mỏ Vàng, xã Mỏ Vàng, 42 học sinh đã có thể học tập trở lại. Dù chỉ là lớp học tạm nhưng chứa đựng những nỗ lực của cấp ủy, chính quyền và ngành giáo dục địa phương với quyết tâm không để sự học nơi đây dang dở.

Trường PTDTBT TH & THCS Dế Xu Phình xã Púng Luông

Ngôi trường "chắp cánh" cho văn hóa dân tộc Mông


Tại Trường Phổ thông dân tộc Bán trú Tiểu học và Trung học cơ sở (PTDTBT TH & THCS) Dế Xu Phình, xã Púng Luông, học sinh dân tộc Mông không chỉ được học tập trong ngôi trường khang trang, mà còn được sống giữa không gian văn hóa của dân tộc mình. Từ những tiết học ngoại khóa đến căn phòng trưng bày các sản phẩm của người Mông, tất cả đã tạo nên môi trường giáo dục toàn diện, giúp các em thêm yêu, tự hào, nâng cao ý thức giữ gìn văn hóa dân tộc.

Dạy chữ nơi lưng chừng trời

Dạy chữ nơi lưng chừng trời

Điểm trường tiểu học, mầm non Séo Mý Tỷ ở độ cao 1.700 m, nơi lưng chừng trời, quanh năm mây phủ, điều kiện dạy học còn nhiều khó khăn. Ở mảnh đất gian khó nhưng đầy thơ mộng này, thầy Sần Quang Minh đã gắn bó 28 năm, kiên trì bám trụ bằng lòng yêu nghề, dìu dắt nhiều thế hệ học sinh.

Sôi nổi Ngày hội Sáng tạo – Khoa học tại Trường Tiểu học Lê Văn Tám

Sôi nổi Ngày hội Sáng tạo – Khoa học tại Trường Tiểu học Lê Văn Tám

Ngày 31/10, Trường Tiểu học Lê Văn Tám, phường Lào Cai  tổ chức Ngày hội Sáng tạo - Khoa học năm 2025, thu hút đông đảo học sinh, giáo viên và phụ huynh các trường khu vực Lào Cai – Cam Đường tham gia. Hoạt động thường niên này nhằm khơi dậy niềm đam mê khám phá, phát triển tư duy sáng tạo và tăng cường ứng dụng công nghệ số trong học tập.

Nâng cao kỹ năng số - trao cơ hội cho phụ nữ vùng cao

Nâng cao kỹ năng số - trao cơ hội cho phụ nữ vùng cao

Trong kỷ nguyên chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, việc trang bị kỹ năng công nghệ cho phụ nữ vùng cao trở nên cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Việc nâng cao kỹ năng số không chỉ góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền mà còn tạo điều kiện để phụ nữ vùng cao ứng dụng công nghệ vào học tập, lao động, khởi nghiệp – từ đó tự tin phát triển kinh tế, khẳng định vai trò và vị thế của mình trong xã hội hiện đại.

Nhà truyền thống Bảo Thắng địa chỉ giáo dục văn hóa, lịch sử địa phương

Nhà truyền thống Bảo Thắng địa chỉ giáo dục văn hóa, lịch sử địa phương

Ở xã Bảo Thắng có một không gian lặng lẽ, yên bình mà trang trọng và đầy ý nghĩa. Đó chính là Nhà truyền thống Bảo Thắng. Hai năm kể từ khi đi vào hoạt động, nơi đây không chỉ trở thành địa chỉ giáo dục văn hóa, lịch sử địa phương cho Nhân dân, mà còn là điểm đến trải nghiệm, tìm hiểu, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước.

Xây dựng môi trường học đường không khói thuốc

Xây dựng môi trường học đường không khói thuốc

Nhận thức rõ tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe con người và môi trường học đường, thời gian qua, các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh về thực hiện nghiêm Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá (PCTHCTL).

fb yt zl tw