Ở bản nhỏ ấy, bà con người Dao tuyển dành nhiều tâm sức, nhen ngọn lửa nhiệt huyết giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống với một ước mơ thật giản dị “làm như vậy để gìn giữ cho thế hệ mai sau”.
Vượt hơn 100 cây số từ thành phố Lào Cai đến bản Nặm Rịa, nơi quần cư của dân tộc Dao tuyển, thuộc xã đặc biệt khó khăn của huyện Bảo Yên. Khi tôi đến, bà Trương Thị Gạo đang ngồi trước hiên nhà để hoàn thành nốt chiếc gùi giao cho khách đặt. Ngày nào cũng vậy, bà dậy sớm và chẻ tre mai đan gùi, bởi nhiều khách đặt mà bà làm không xuể, nhất là vào mùa thu hoạch sắn, những người ở trong xã có nhu cầu mua gùi rất nhiều. Cũng bởi giờ đây, rất ít người còn biết đan gùi và còn mặn mà với nghề thủ công tỉ mẩn này.
Ở cái tuổi thất thập cổ lai hy, nhưng hễ không phải lên nương cấy hái, không phải đi rừng nhặt củi là bà Gạo lại cặm cụi đan những chiếc gùi từ cật tre. Chính vì đan từ cật tre nên để uốn được từng nan cật một cách dễ dàng, bà phải lựa cật tre còn tươi, loại bánh tẻ, vừa đủ độ dẻo, bền. Dẫu vậy, nhưng nếu không thành thạo, việc uốn nan cật nhiều khi vẫn bật máu tay như thường.
Biết đan gùi từ tầm bé, hằng ngày nhìn bố làm nên bà Gạo cứ thế học lỏm và ghi nhớ trong đầu cách vót nan, cách đan bện gùi. Thế rồi, lớn lên bà Gạo tự tay đan gùi, cứ thế qua những năm tháng miệt mài, đôi tay giờ đã nhiều nếp nhăn theo tuổi tác nhưng bà Gạo vẫn cần mẫn với nghề. Những nan tre mai đan gùi thường cứng và sắc, không ít lần uốn nan đan gùi, tay bà bật máu, đau cả tuần liền, tiền công mỗi chiếc gùi lại không đáng là bao, thế nhưng vì đam mê, khỏi tay là bà lại tìm đến những nan tre mai để đan, để uốn. Trung bình mỗi ngày bà nhẩn nha đan cũng xong 1 chiếc gùi, nếu làm tích cực thì 2 ngày bà đan xong 3 chiếc gùi. Giờ thì mắt đã mờ, tay cũng yếu hơn nên mỗi ngày bà dậy sớm nhẩn nha đan đến chiều thì xong 1 chiếc gùi.
Trò chuyện với chúng tôi, bà Gạo kể: Ngày trước lúc còn trẻ, tôi cùng chồng và các con lên rừng tìm cây tre mai chặt mang về, nhưng giờ tuổi đã cao, không đi rừng được nữa mà đặt mua ống tre mai để chẻ nan đan gùi. Vì tre mai cứng và rất giòn, phải chẻ nan và đan khi còn xanh vỏ, thường mùa mát và mùa lạnh thì tre lâu khô, dễ uốn hơn. Mùa hè, những ngày nắng nóng, nếu đan chưa hết nan thì nan tre mai phải ngâm nước, lúc đan mới dễ uốn và không bị gãy. Không như đan lát các loại rổ, rá, đồ dùng bằng tre, nứa hoặc cây giang, thường thì lạt mỏng, nhỏ hoặc mềm dẻo hơn, nhưng để đan gùi thì vất vả hơn rất nhiều, bởi đan gùi không chỉ kỹ thuật khéo léo để tạo thành khuôn hình vuông vắn, các đường viền vắt đều tay, thì để uốn thành nếp, phải dùng lực mạnh hơn.
Không chỉ có đan chiếc gùi truyền thống, bà Gạo còn sáng tạo đan những chiếc gùi mi ni để mọi người dùng đựng các đồ vật nhỏ trong nhà, dùng trang trí, cắm hoa… được nhiều người yêu thích, đặt bà Gạo đan. Đặc biệt, sau mỗi vụ thu hoạch lúa, bà Gạo lại lên nương tỉ mẩn tuốt từng cọng rơm lúa nương, bó mang về nhà. Chẳng là, không chỉ biết đan gùi, bà Gạo còn biết bện ghế rơm - đệm ngồi bằng rơm. Sở dĩ phải dùng rơm của lúa nương thì mới có độ dài; phải kỳ công tuốt lúa trên nương mới có rơm đẹp để bện. Nếu dùng máy tuốt, rơm sẽ gãy và không dùng bện đệm rơm được. Chiếc ghế rơm phải tết thành bản dày 10 cm, sau đó được khéo léo cuộn tròn lại, thành chiếc ghế ngồi rất êm.
Giờ rất ít gia đình người Dao ở bản Nặm Rịa còn biết bện rơm và dùng đệm rơm để ngồi. Thế nhưng, vì đam mê với nghề truyền thống và muốn con cháu giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc mình, bà Gạo vẫn dành thời gian dạy con cháu biết đan gùi, bện đệm rơm. Không chỉ dùng trong gia đình, mà còn mang ý nghĩa bảo tồn bản sắc văn hóa, tiếp nối truyền thống văn hóa dân tộc Dao cho thế hệ mai sau.
Là một trong những phụ nữ dân tộc Dao không chỉ khéo tay, chăm chỉ, đam mê nghề đan lát, giờ đây, tóc đã pha sương, đôi tay đã yếu, nhưng đam mê với nghề truyền thống vẫn thôi thúc bà tỉ mẩn mỗi ngày. Bà Gạo còn may túi, thêu thổ cẩm, may trang phục truyền thống dân tộc Dao cho mình, cho con cháu. Trong bản Nặm Rịa, ai cần dùng thì bà sẽ làm giúp. Trang phục, khăn, túi vải thổ cẩm truyền thống của dân tộc Dao vẫn được đồng bào Dao mặc trong những dịp quan trọng, các nghi lễ của dân tộc Dao, của ngày tết, lễ...
Con trai bà Gạo, anh Lý Văn Nội, mặc dù hằng ngày phải đi đi về về trên quãng đường hơn chục cây số từ Tân Tiến ra Nghĩa Đô công tác, nhưng cứ hết giờ làm, trở về nhà, anh lại tỉ mẩn chăm chút cho gia đình nhỏ, cất công sưu tầm những đồ cũ của dân tộc mình.
Có khi anh Nội còn lặn lội ra tận bản người Dao tuyển ở xã Xuân Hòa chỉ để xem ở đó bà con Dao tuyển dệt vải bông và nhuộm chàm như thế nào.
Em trai anh Lý Văn Nội là anh Lý Văn Đanh cũng biết về cây thuốc và một số bài thuốc gia truyền của người Dao tuyển.
Mình lấy một số loại bài thuốc từ cây thuốc trên rừng, mọc quanh nương gần nhà, theo các cụ xưa dạy truyền lại. Một vài bài thuốc chữa các bệnh đơn giản, lấy lá thuốc làm nước uống giải nhiệt và tốt cho sức khỏe hằng ngày.
Em gái anh Lý Văn Nội là chị Lý Thị Kỉn hiện là Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Tân Tiến, cũng là một trong những người con trưởng thành từ bản Dao Nặm Rịa. Theo truyền thống gia đình, không chỉ giỏi việc nước, chị còn đảm việc nhà khi cùng mẹ, chị dâu và các chị em trong họ quyết tâm gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Dao. Trong công việc, chị tích cực tuyên truyền cho hội viên phụ nữ có nhiều việc làm thiết thực trong việc tham gia gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.
Ấp ủ trong mình rất nhiều ý tưởng và dự định, với anh Lý Văn Nội - người con của bản người Dao tuyển ở Tân Tiến luôn đau đáu bởi khi đi đến 10 bản người Dao trong xã thì hầu như những đồ cũ - bóng dáng của văn hóa truyền thống đã không còn nhiều nữa. Thứ thì mai một, thứ thì mất dần… anh thấy nuối tiếc cho sự “ra đi” vô hình ấy.
Ước mơ giản dị của anh Nội là để khi du khách qua đường, dừng chân bản Nặm Rịa, thấy được một phần văn hóa truyền thống của người Dao tuyển ở Tân Tiến, hiện hữu ở đây cả ý chí, khát vọng vươn lên của chính họ, bằng những nét đẹp văn hóa vẫn còn được gìn giữ, bảo tồn nguyên vẹn. Lớn hơn, đó là “của để dành” cho thế hệ mai sau mà những người như anh Nội và các thành viên trong gia đình anh đang là thế hệ tiếp nối mạch nguồn văn hóa ấy, nên cần phải gìn giữ và bảo tồn.
Tôi hiểu rằng ước mơ của anh Lý Văn Nội cũng là ước mơ chung của bà con đồng bào dân tộc Dao tuyển ở Tân Tiến, chỉ có điều cuộc mưu sinh nơi một địa bàn còn nhiều gian khó thì hẳn nhiên câu chuyện để họ chuyên tâm đến việc bảo tồn văn hóa hiện vẫn đặt sau sinh kế. Điều này cũng truyền tải thông điệp đến cấp ủy đảng, chính quyền địa phương cần hỗ trợ bà con trong việc vừa phát triển kinh tế nhưng cũng song hành giữ gìn bản sắc văn hóa.