T.S. Dương Đức Huy
Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Lào Cai
Các dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV với kết cấu, nội dung có nhiều đổi mới đã thể hiện tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá khách quan tình hình, trên cơ sở đó đề ra hệ quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp đột phá để phát triển nhanh và bền vững đất nước, thể hiện khát vọng vươn mình mạnh mẽ của cả dân tộc trong kỷ nguyên mới. Báo cáo tập trung nêu bật các vấn đề mới, quan trọng trong các Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng.
 
 Trước hết, về chủ đề Đại hội. Chủ đề Đại hội gồm 62 chữ: “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030; tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, vì hòa bình, độc lập, dân chủ, phồn vinh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Theo đó, các thành tố trong chủ đề mang đậm tính Đảng, tinh thần đại đoàn kết, khơi lên khát vọng của Nhân dân về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; chủ đề Đại hội thể hiện sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, củng cố niềm tin, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của Đảng và sức mạnh của toàn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển hùng cường, sánh vai với các cường quốc trong kỷ nguyên mới.
 
 Khác với các nhiệm kỳ trước, Báo cáo chính trị lần này đổi mới toàn diện về cấu trúc và phương pháp tiếp cận, khi lần đầu tích hợp ba văn kiện - Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội và Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng - thành một chỉnh thể thống nhất. Cách làm này bảo đảm sự liền mạch giữa thể chế, kinh tế và con người, thể hiện tinh thần “ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ làm” và nâng cao tính hành động của toàn bộ hệ thống. Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đánh dấu bước nhảy vọt về tư duy phát triển khi cập nhật hàng loạt quyết sách chiến lược được Bộ Chính trị ban hành từ cuối năm 2024 đến nay, tạo động lực cho phát triển nhanh, bền vững và hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường vào năm 2045. Bổ sung lý luận về đường lối đổi mới: Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới được bổ sung là bộ phận quan trọng cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây là điểm mới có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, phản ánh năng lực tổng kết thực tiễn, phát triển tư duy và bản lĩnh tự đổi mới của Đảng sau 40 năm đổi mới. Dự thảo đồng thời đưa “bảo vệ môi trường” vào nhóm nhiệm vụ trung tâm, bên cạnh phát triển kinh tế và xã hội. Quan điểm chuyển từ “đi cùng phát triển” sang “dẫn dắt phát triển”, coi sinh thái là thước đo của chính sách, gắn với mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050. Đây không còn là khẩu hiệu mà là cam kết chiến lược, thể hiện trách nhiệm của Việt Nam trước nhân loại.
 
 Trung ương cũng lần đầu xác định “đối ngoại, hội nhập quốc tế” được đặt ngang hàng với quốc phòng và an ninh, trở thành nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Tư duy này mở rộng khung chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, thúc đẩy phối hợp “ba trụ cột quốc phòng - an ninh - đối ngoại” và xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao toàn diện về kinh tế, công nghệ, văn hóa, kỹ thuật. Dự thảo tiếp tục khẳng định “thể chế chính trị là then chốt, thể chế kinh tế là trọng tâm, các thể chế khác là rất quan trọng”, thể hiện rõ thứ tự ưu tiên trong cải cách. Ba đột phá chiến lược được tái cấu trúc: hoàn thiện thể chế phát triển nhanh, bền vững; phát triển nhân lực chất lượng cao gắn với khoa học - công nghệ; đầu tư đồng bộ hạ tầng, nhất là hạ tầng số, năng lượng và đô thị xanh, giúp phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
 
 Như vậy, mục tiêu tăng trưởng bình quân 10%/năm giai đoạn 2026 - 2030 không chỉ là khát vọng mà còn là thách thức “để hoán chuyển thách thức thành cơ hội”. Dự thảo cũng chỉ ra rằng để đạt được mục tiêu này, cần huy động đồng bộ các động lực tăng trưởng và đảm bảo tỷ lệ đầu tư trên GDP vượt ngưỡng 40%. Điều này cho thấy tầm nhìn chiến lược táo bạo và quyết tâm cao của Đảng trong việc đưa đất nước phát triển nhanh hơn. Mô hình tăng trưởng mới tập trung vào công nghiệp lõi, công nghiệp xanh, nông nghiệp công nghệ cao, dịch vụ chất lượng và kinh tế số.
 
 Tinh thần cốt lõi trong một số nghị quyết mới của Bộ Chính trị đã được đưa vào dự thảo Văn kiện bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất. Về kinh tế, Văn kiện khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Dự thảo xác định phát triển kinh tế nhà nước hiệu quả, thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm các cân đối lớn, định hướng chiến lược và dẫn dắt; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các loại hình kinh tế khác giữ vai trò quan trọng. Việc đặt kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thể hiện tầm nhìn chiến lược trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt. Quan điểm này khẳng định vai trò ngày càng lớn của doanh nghiệp tư nhân trong đổi mới công nghệ, tạo việc làm, tăng năng suất lao động và đóng góp vào ngân sách, qua đó củng cố tính tự chủ của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới.
 
 Dự thảo cũng đặt văn hóa, con người ở vị trí trung tâm của phát triển. Văn hóa được coi là nền tảng tinh thần, con người là nguồn lực, sức mạnh nội sinh và là hệ điều tiết phát triển bền vững. Lần đầu tiên, hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, con người và gia đình Việt Nam được nêu cụ thể trong văn kiện; y tế được xác định là trụ cột an sinh, gắn với công bằng và chuyển đổi số trong chăm sóc sức khỏe nhân dân. Phát triển con người được đặt ở vị trí trung tâm của mọi chính sách với mục tiêu là “phát triển con người Việt Nam toàn diện, giàu lòng yêu nước, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo và hội nhập”. Hạnh phúc và sự hài lòng của Nhân dân được coi là thước đo của phát triển. Đây là bước phát triển quan trọng về tư duy khi gắn khoa học, giáo dục và con người thành một chuỗi động lực thống nhất trong chiến lược tự cường quốc gia.
Cùng với văn hóa, khoa học, công nghệ và giáo dục được xác định là động lực chính của phát triển. Dự thảo báo cáo xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực trung tâm trong mô hình tăng trưởng mới, là chìa khóa để hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh và bền vững. Đây là sự tiếp nối tư duy từ Đại hội XIII nhưng được nâng lên một tầm cao mới, mang tính chiến lược hơn. Sự nhấn mạnh vào đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cho thấy nhận thức rõ ràng về xu thế phát triển toàn cầu và sự cần thiết phải tận dụng những yếu tố này để tạo ra đột phá.
 
  
 Giáo dục và đào tạo xây dựng hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới. Lần đầu tiên, các lĩnh vực này được đặt trong cùng một cấu trúc với ba đột phá chiến lược, coi phát triển tri thức và nhân lực chất lượng cao là điều kiện tiên quyết của tự cường quốc gia. Theo báo cáo, Việt Nam sẽ ưu tiên đầu tư mạnh mẽ cho các ngành công nghệ nguồn và công nghệ tương lai như trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, sinh học, vật liệu mới, năng lượng sạch, không gian vũ trụ và hạt nhân hòa bình. Văn kiện nêu rõ yêu cầu hoàn thiện cơ chế, chính sách vượt trội cho nghiên cứu, phát triển và ứng dụng, thúc đẩy doanh nghiệp công nghệ trong nước, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, hình thành mạng lưới đổi mới sáng tạo toàn cầu của người Việt Nam và bảo đảm “chủ quyền công nghệ”. Dự thảo định hướng xây dựng nền giáo dục mở, hiện đại, hội nhập, thực học - thực nghiệp, hướng tới phát triển con người toàn diện, lấy chuẩn đầu ra quốc tế làm thước đo chất lượng.
 
 Về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, lần đầu tiên, dự thảo Báo cáo chính trị khẳng định cụm từ “đột phá phát triển” đối với công nghiệp quốc phòng và an ninh, thể hiện quyết tâm chính trị rất cao nhằm tạo bước nhảy vọt về năng lực tự chủ, tự lực, tự cường, kết hợp chặt chẽ với công nghiệp dân sự. Tư duy mới này chuyển từ phát triển từng phần sang xây dựng hệ sinh thái công nghiệp lưỡng dụng, hiện đại, có khả năng tham gia chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu. Về đối ngoại, dự thảo mở rộng tầm nhìn chiến lược, xác định ngoại giao không chỉ là công cụ bảo vệ chế độ hay tìm kiếm hợp tác kinh tế, mà còn là phương thức thể hiện bản lĩnh, bản sắc và tầm vóc Việt Nam trên trường quốc tế. Yếu tố văn hóa - lịch sử được coi là “sức mạnh mềm”, lan tỏa giá trị văn minh Việt Nam, tăng uy tín và ảnh hưởng quốc tế.
Trong công tác xây dựng Đảng, điểm mới nổi bật là bổ sung khái niệm “Đảng văn minh” - nhấn mạnh yêu cầu thích ứng thời đại, đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền và kiểm soát quyền lực. Công tác cán bộ được triển khai đồng bộ ở cả cấp chiến lược và cơ sở, coi đội ngũ cơ sở là trung tâm của thực thi chính sách, trực tiếp gắn bó với Nhân dân. Dự thảo cũng nhấn mạnh dân là gốc, nhân dân là trung tâm, là chủ thể của mọi quyết sách phát triển. Mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, sự hài lòng của người dân làm thước đo thành công. Đây là bước phát triển mới trong tư duy “lấy người dân làm trung tâm”, thể hiện rõ triết lý phát triển của Đảng trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên tự cường và hội nhập sâu rộng của đất nước.
 
 Có thể khẳng định, dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ cả về tư duy, cấu trúc và nội dung. Các điểm mới này cho thấy tầm nhìn chiến lược, quyết tâm cao của với tinh thần đổi mới, khát vọng phát triển và quyết tâm xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
 
 
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
  