Tuy nhiên, khi thẳng thắn đánh giá, nhìn nhận “căn bệnh” này bắt nguồn từ cả hai yếu tố chủ quan và khách quan. Khi đào sâu, chỉ rõ nguyên nhân thì nguyên nhân chính, phát khởi vẫn là do bản thân, vì lợi ích cá nhân.
Bệnh cục bộ, địa phương thường song hành với thói đạo đức giả, hão huyền, mơ hồ về quyền lực, ngoài ra cũng chính là “chiếc kén” để che đậy sự hạn chế trong chuyên môn, sự kém cỏi trong trình độ. Do vậy, phải “kéo bè, kết cánh” để tránh bị xử lý khi sai phạm. Đây là điều quần chúng Nhân dân rất khinh ghét.
Những biểu hiện của "căn bệnh" cục bộ, địa phương sẽ kéo theo vô số thói hư, tật xấu như: đam mê quyền lực, chạy chức, chạy quyền, xa rời quần chúng… xa hơn chính là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cá nhân đảng viên, nội bộ của tổ chức Đảng. Trong thời điểm trước thềm Đại hội XIV, Đảng tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, việc kịp thời nhận diện nguyên nhân gây bệnh có ý nghĩa quan trọng để đưa ra những “liều vắc-xin” đặc trị “căn bệnh” này!

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra một trong những căn bệnh mà một bộ phận cán bộ, đảng viên mắc phải, từ bè cánh mà đi đến chia rẽ. Bác khẳng định bệnh này “rất nguy hiểm”, “rất tai hại cho Đảng”, vì: “Nó làm hại đến sự thống nhất... Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí. Nó gây ra những mối nghi ngờ”. Ngoài ra, căn bệnh “cục bộ”, “địa phương” cũng xuất phát từ chính bản thân của những người đảng viên chưa thấm nhuần tính Đảng, chưa hiểu thấu trách nhiệm và nghĩa vụ của người đảng viên. Hay nói cách khác, đó là người chưa đáp ứng đủ các tiêu chuẩn của một người cách mệnh như yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, trong số các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, thì: “Nhân dân và dư luận xã hội quan tâm nhiều nhất, bức xúc nhất là tình trạng tham nhũng, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm ở một bộ phận đảng viên có chức, có quyền, cả trong một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước”.
Nguyên nhân khách quan có thể chỉ ra như: do thực hiện đổi mới kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường hết được tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, chưa có sự chuẩn bị thật kỹ về lập trường, tư tưởng và cả cách thức tiếp cận mới cho cán bộ, đảng viên.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước, đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển, và từ đây "căn bệnh" cục bộ, địa phương cứ thế càng lớn mạnh. Trong khi đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với Nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng”.
Hay đó còn là cơ chế, chính sách, pháp luật thích ứng với quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém.
Ngoài ra, "căn bệnh" cục bộ, địa phương cũng xuất phát từ việc thiếu tu dưỡng của một số cán bộ, đảng viên. Do tham vọng về chính trị, ảo tưởng về quyền lực mà đánh mất chính mình, để chủ nghĩa cá nhân lấn át bản lĩnh cách mạng, để tiền tài, danh vọng làm mờ mắt. Sử dụng tiền tài để “mua” lấy “bè, cánh”. Khi bàn về nguyên nhân của những khuyết điểm, sai lầm mà cán bộ, đảng viên mắc phải (trong đó có bệnh hiếu danh), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong Đảng ta còn có những người chưa học được, chưa làm được 4 chữ “chí-công-vô-tư”, cho nên mắc phải chứng chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”.

Không chỉ có vậy, căn bệnh “cục bộ”, “địa phương” còn xuất phát do những danh vọng tầm thường. Nhiều người do tham quyền, cố vị mà lo sợ “mất ghế” nên đã dùng mọi cách từ tình cảm cá nhân cho đến tiền bạc để mua chuộc, kéo bè, kết cánh, tạo ra một tập thể “địa phương” như mong muốn.
Ngoài ra, nguyên nhân của “căn bệnh” này còn do sự yếu kém về chuyên môn công tác, do vậy chỉ chăm chăm lo thủ thế, hễ gặp nhau là bàn mưu tính kế đối phó người này, hạ bệ người kia, không còn đâu tâm trí lo cho công việc.
Một số người có thể tự hào về những gì địa phương mình có, như văn hóa, truyền thống, hoặc tài nguyên, và cho rằng địa phương mình là tốt nhất. Điều này có thể dẫn đến việc họ coi thường hoặc không chấp nhận những gì khác biệt từ các địa phương khác. Không chỉ vậy, một số người có thể không nhận thức rõ về tầm quan trọng của lợi ích chung, và chỉ tập trung vào việc tìm cách mang lợi cho cá nhân, người quen, hay những người ở địa phương mình. Trong một số trường hợp, tư tưởng cục bộ địa phương có thể xuất phát từ việc một nhóm người ưu tiên lợi ích của mình hơn là lợi ích của cộng đồng.

Ở chương 5 có tiêu đề “Sự thịnh suy của dân quyền và dân trí nước ta” trong cuốn “Việt Nam quốc sử khảo” (1909) cách đây gần 120 năm, chí sĩ Phan Bội Châu (1867 - 1940) đã chỉ ra 5 “điều rất ngu” của một bộ phận dân chúng thời bấy giờ, trong đó có hai “điều rất ngu” ám chỉ thói cục bộ là: “Chỉ biết lợi mình mà không biết hợp quần” (“hợp quần” được hiểu là đoàn kết) và “Thương tiếc của riêng, không tưởng đến việc ích chung”. Cảnh báo những “điều rất ngu” trên, Phan Bội Châu như muốn nhắc nhở, thức tỉnh mọi người dân Việt muốn thoát khỏi cảnh lầm than nô lệ thì cần phải khắc phục cho được sự hẹp hòi của cá nhân, chỉ biết lợi của riêng mình mà không nghĩ đến sức mạnh đoàn kết dân tộc, lợi ích quốc gia đang bị chế độ thực dân phong kiến chà đạp. Kết hợp cùng phân tích trên có thể thấy, căn bệnh “cục bộ” “địa phương” ở bất kì thời điểm nào cũng rất nguy hại cho sự tồn vong của một tập thể, bởi trong tập thể đó chỉ toàn chủ nghĩa cá nhân.
Soi chiếu lại quá trình lãnh đạo của một tổ chức Đảng, có thể thấy rằng, căn bệnh này phát triển do việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng không được thực hiện nghiêm túc đã được dung dưỡng, lan truyền, tạo ra những hệ lụy tiêu cực. Đây cũng là nguyên nhân làm cho một tổ chức Đảng suy yếu và là cơ hội để các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá.
Quy định 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 của Bộ Chính trị “Về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ” giúp cho việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ được nghiêm túc, chặt chẽ hơn. Đồng thời, để đề cao vai trò của cá nhân người đứng đầu trong công tác cán bộ, ngày 23/4/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định 142-QĐ/TW thí điểm giao quyền, trách nhiệm cho người đứng đầu trong công tác cán bộ.
Từ tư tưởng “làng anh, làng tôi”, “quê anh, quê tôi” đã tạo nên một tập thể không thống nhất, đoàn kết trong Đảng. Cũng từ tư tưởng “địa phương”, mà nhiều đảng viên “mũ ni che tai”, không quan tâm đến việc xây dựng tổ chức Đảng, chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, không tự phê bình và phê bình, không thẳng thắn nhìn nhận vi phạm, khuyết điểm, đối với đồng chí “cùng quê”, “cùng làng”, không dám phê bình vì sợ “quê hương từ mặt”. Mặt khác, còn tình trạng người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị, tổ chức chưa thực hiện đúng quy định về trách nhiệm nêu gương, cá biệt có nơi chính người đứng đầu mắc phải căn bệnh “cục bộ”, “địa phương”, ưu ái người làng, người cùng quê, “đệ cứng” đã trở thành gương xấu cho cấp dưới.
Nhìn nhận một cách thực tế, “giọt máu đào hơn ao nước lã”, câu thành ngữ này cần phải được hiểu theo tư duy mới. Không phải lúc nào “máu đào” cũng quý hơn “nước lã”; nếu biết sử dụng thì cả hai thứ đều quý như nhau; chẳng hạn để chữa đám cháy hoặc khi trên sa mạc, ta cần nước hơn cần máu. Nếu không vượt qua được tư tưởng cục bộ thì đất nước chưa thể phát triển, hội nhập thực sự và mãi mãi giậm chân tại chỗ.