Quay về E-magazine Theo dõi Báo Lào Cai trên Google News
Thúc đẩy ngành chè phát triển bền vững

Thúc đẩy ngành chè phát triển bền vững

Chè là 1 trong 5 loại cây trồng chủ lực được xác định tại Nghị quyết số 10 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy cùng với dược liệu, chuối, dứa, quế. Bằng nhiều giải pháp đồng bộ, các ngành, địa phương đã đẩy mạnh phát triển diện tích trồng và từng bước nâng cao giá trị sản phẩm chè.

Mở rộng diện tích chè

Hiện tổng diện tích chè toàn tỉnh là 7.346 ha, trong đó có 4.868 ha chè kinh doanh, 2.478 ha chè kiến thiết cơ bản. Năm 2023, toàn tỉnh sẽ trồng mới 1.055 ha, nâng tổng diện tích chè tập trung toàn tỉnh lên 8.401 ha, bằng 99,8% mục tiêu Nghị quyết 10 đến năm 2025 (đạt 8.420 ha), bằng 84% mục tiêu Nghị quyết 10 đến năm 2030 (đạt 10.000 ha) và vượt 20% mục tiêu Đề án số 01 (mục tiêu Đề án 01 đến năm 2025 đạt 7.000 ha).

CHE2.jpg
Mường Khương là địa phương có diện tích trồng chè lớn nhất tỉnh với gần 5.000 ha.

Ông Đỗ Văn Duy, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết: Để đạt kết quả trên, tỉnh đã ưu tiên các nguồn lực đầu tư phát triển chè theo hướng vừa mở rộng quy mô diện tích, vừa nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, sức cạnh tranh sản phẩm trên thị trường. Cùng với chuyển đổi cơ cấu giống, các địa phương đã chú trọng đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong sản xuất, chế biến chè an toàn, hữu cơ.

Các tiến bộ khoa học, công nghệ đã được áp dụng có thể kể đến như sử dụng phân bón hữu cơ, tiết kiệm nước trong thâm canh chè. Hầu hết diện tích chè của tỉnh được sản xuất theo hướng áp dụng quy trình sản xuất chè an toàn, sản xuất theo hướng hữu cơ, thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP)…

CHE3.jpg
Dây chuyền chế biến chè của Công ty Cổ phần chè Phong Hải Lào Cai.

Cơ cấu sản phẩm chè qua chế biến có sự dịch chuyển theo hướng tăng tỷ lệ chè xanh chất lượng và chè chất lượng cao phục vụ nội tiêu (trà Việt Ô long, Việt Hương trà, Phong Hải danh trà, chè xanh Ô long…) chiếm khoảng 20% sản lượng. Công tác quản lý, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu chè ngày càng được quan tâm. Đến nay có 12 sản phẩm chè đạt chứng nhận sản phẩm OCOP cấp tỉnh từ 3 sao trở lên, trong đó có 4 sản phẩm chè đạt hạng 4 sao.

Hiện trên địa bàn tỉnh có 14 doanh nghiệp, cơ sở chế biến sản phẩm chè với tổng công suất chế biến đạt hơn 180 tấn chè búp tươi/ngày. Ngoài ra, có hơn 350 lò chế biến mini quy mô hộ gia đình, trung bình mỗi xưởng có công suất 1 - 2 tạ búp tươi/ngày.

Sản phẩm chè hiện nay chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường Trung Đông và nội tiêu, giá trung bình đạt 2.600 USD/tấn. Trên địa bàn tỉnh có một số công ty, hợp tác xã sản xuất chè đáp ứng được các thị trường khó tính, xuất khẩu sang thị trường Đài Loan với các loại sản phẩm chè Ô long. Đặc biệt, sản phẩm chè tại huyện Bắc Hà đạt tiêu chuẩn hữu cơ được Hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Bắc Hà liên kết xuất khẩu sang thị trường châu Âu và Mỹ (mỗi năm đạt 120 tấn).

CHE11.jpg
Chủ tịch UBND tỉnh Trịnh Xuân Trường thăm Nhà máy sản xuất chè Ô Long của Công ty TNHH Một thành viên Mường Hoa (Mường Khương).

Năng suất chè còn thấp

Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tiềm năng phát triển chè tại các địa phương trong tỉnh còn rất lớn, tuy nhiên công tác chỉ đạo phát triển chè khác nhau, có những nơi rất thuận lợi mở rộng diện tích. Như tại huyện Mường Khương, cấp ủy đảng, chính quyền địa phương quyết liệt chỉ đạo và được sự đồng thuận của người dân nên đến nay diện tích chè tập trung của huyện đạt 4.915 ha, chiếm 66,9% diện tích chè toàn tỉnh.

CHE6.jpg
Nông dân đổi công thu hái chè.

Bên cạnh đó, có địa phương gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai trồng chè mới, như huyện Bát Xát nhiều năm không đạt kế hoạch trồng chè mới: Năm 2019 chỉ đạt 44,4% kế hoạch giao, năm 2020 đạt 40% kế hoạch giao.

Nguyên nhân chủ yếu là do việc liên kết giữa doanh nghiệp và người sản xuất còn lỏng lẻo, doanh nghiệp không thu mua chè búp tươi cho người dân dẫn đến tình trạng người dân bỏ nương chè, nhiều diện tích chè bỏ hoang, không chăm sóc. Đến hết năm 2022, Bát Xát còn 209 ha chè (giảm 349 ha so với năm 2020).

CHE 32333.jpg
Nhiều hộ dân ở huyện Bảo Yên trồng quế xen vào đồi chè.

Tại huyện Bảo Yên, diện tích chè cũng giảm mạnh do những năm gần đây giá trị sản phẩm quế tăng cao, vì lợi ích trước mắt nên người dân trồng xen quế và chặt bỏ chè.

Hiện nay, năng suất chè còn thấp so với tiềm năng phát triển, bình quân đạt 76,3 tạ/ha, bằng 88,3% mục tiêu đến năm 2025 (đến năm 2025 năng suất bình quân đạt 86,37 tạ/ha), bằng 71,6% năng suất chè bình quân của cả nước (94 tạ/ha). Năng suất lao động và hiệu quả kinh tế chưa cao, thu nhập của người trồng chè chưa xứng tầm với tiềm năng phát triển và dư địa của cây chè.

Liên kết sản xuất, mở rộng thị trường xuất khẩu

Ông Đỗ Văn Duy, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết: Để khẳng định cây chè là cây trồng chủ lực và xây dựng thương hiệu chè của tỉnh thì không chỉ cần quan tâm đến phát triển vùng nguyên liệu, mà quan trọng hơn là nâng cao chất lượng vùng nguyên liệu theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn hiện hành. Có như vậy mới dám nghĩ tới việc đưa sản phẩm chè của Lào Cai đến các thị trường khó tính.

Chính quyền cấp xã, cấp huyện cần chỉ đạo tốt việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào thâm canh tăng năng suất và chất lượng của vùng chè kinh doanh. Đổi mới công tác tuyên truyền, hướng dẫn sâu rộng trong Nhân dân về liên kết sản xuất. Tiếp tục đẩy mạnh sự chỉ đạo của các cấp chính quyền trong quản lý nhà nước tại vùng nguyên liệu chè; giữ vai trò làm trọng tài vừa chỉ đạo vừa giám sát quá trình thực hiện thông qua hợp đồng liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và người dân.

CHE 43444.jpg
Nông dân Bảo Yên thu hái chè.

Các công ty, doanh nghiệp có kế hoạch chi tiết, giải pháp căn cơ để quản lý, phát triển vùng nguyên liệu và thu mua nguyên liệu chè búp tươi cho nông dân trong vùng, quy định và thống nhất phẩm cấp chè búp tươi, giá thu mua từng thời điểm đảm bảo công khai, minh bạch, dễ theo dõi, giám sát; chia sẻ lợi ích hài hòa với người trồng chè. Đóng vai trò chủ đạo trong hướng dẫn, quản lý, giám sát quy trình kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm, hỗ trợ người trồng chè liên kết thành các tổ hợp tác, hợp tác xã, câu lạc bộ sản xuất chè an toàn.

CHE5.jpg
Sản phẩm chè nội tiêu của Công ty Cổ phần chè Phong Hải Lào Cai.

Các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp chế biến chè không ngừng đa dạng hóa sản phẩm chế biến, thay đổi mẫu mã, bao bì đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng; tăng cường quảng bá, xúc tiến thương mại để mở rộng sang thị trường xuất khẩu chè cao cấp, khó tính; chú trọng phát triển thị trường nội tiêu…

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Sức vươn Việt Tiến

Sức vươn Việt Tiến

Đạt chuẩn nông thôn mới năm 2015, Việt Tiến là một trong những xã “về đích” sớm chương trình này, mang lại diện mạo mới, khang trang cho vùng đất trù phú bên dòng sông Chảy, phía Nam của huyện Bảo Yên.

Từ "con đường tơ lụa" trên sông Hồng đến trục động lực kinh tế "chung một dòng sông"

Từ "con đường tơ lụa" trên sông Hồng đến trục động lực kinh tế "chung một dòng sông"

Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, có nhiều “con đường tơ lụa” được nhắc đến hiện nay, như tuyến đường thương mại Đông - Tây giữa Hy Lạp và Trung Quốc bắt đầu mở trong thế kỷ I và II TCN; hay “con đường tơ lụa” chính đi từ thủ đô của Trung Quốc qua Trung Á đến châu Âu... Và có một “con đường tơ lụa” nổi tiếng trên sông Hồng vẫn chảy suốt từ thời cổ đại đến hôm nay, đang trở thành “con đường tơ lụa” trong thời đại mới.

Tạo cơ sở hình thành khu hợp tác kinh tế qua biên giới

Dự án Cầu đường bộ qua sông Hồng Bát Xát (Việt Nam) - Bá Sái (Trung Quốc): Tạo cơ sở hình thành khu hợp tác kinh tế qua biên giới

Khu vực biên giới giữa tỉnh Lào Cai (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) từ lâu đã được xem là một trong những điểm kết nối kinh tế, văn hóa và giao thương quan trọng giữa hai nước. Trong đó, các cây cầu biên giới đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy kinh tế biên mậu, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị.

Từ con đường tơ lụa trên sông Hồng đến trục kinh tế động lực “chung dòng sông cùng ý tưởng”: Bài cuối: Trục kinh tế động lực “chung dòng sông cùng ý tưởng”

Từ con đường tơ lụa trên sông Hồng đến trục kinh tế động lực “chung dòng sông cùng ý tưởng”: Bài cuối: Trục kinh tế động lực “chung dòng sông cùng ý tưởng”

Việc biến “con đường tơ lụa” trên sông Hồng từ thời cổ đại trở thành “con đường tơ lụa” trong thời đại mới; kiến tạo tương lai, hợp tác cùng có lợi; mở ra hành lang thương mại mới đòi hỏi các tỉnh, thành phố của Việt Nam và Trung Quốc cần có sự hợp tác chặt chẽ với tinh thần “chung dòng sông cùng ý tưởng”.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì họp đôn đốc các dự án đường cao tốc

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì họp đôn đốc các dự án đường cao tốc

Chiều 29/3, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải chủ trì cuộc họp của Thường trực Chính phủ với các Đoàn kiểm tra của Chính phủ kiểm tra, đôn đốc triển khai các dự án đường bộ cao tốc trong cả nước.

Bài cuối: Kiến tạo không gian phát triển mới

HIỆN THỰC HÓA GIẤC MƠ ĐÔ THỊ DỌC SÔNG HỒNG: Bài cuối: Kiến tạo không gian phát triển mới

Sông Hồng - dòng chảy đỏ nặng phù sa, nơi hun đúc nền văn minh rực rỡ, nơi in dấu những bước chân đầu tiên của người Việt trên hành trình dựng nước và giữ nước. Hàng nghìn năm qua, con sông ấy không chỉ mang lại nguồn sống cho bao thế hệ mà còn kết nối những vùng đất, những nền văn hóa, tạo nên một vùng Bắc Bộ trù phú và giàu bản sắc.

Bài 6: Hành trình kiến tạo những đô thị ven sông

HIỆN THỰC HÓA GIẤC MƠ ĐÔ THỊ DỌC SÔNG HỒNG: Bài 6: Hành trình kiến tạo những đô thị ven sông

Dọc theo đôi bờ sông Hồng trên hành trình chảy qua 9 tỉnh của Việt Nam, những đô thị mới dần hình thành, mang theo những khát vọng phát triển, hòa quyện giữa sự hoang sơ và hơi thở hiện đại. Từ miền thượng nguồn nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt tại tỉnh Lào Cai, chúng tôi đã rong ruổi theo dòng sông qua các tỉnh để về Thái Bình. 

Từ con đường tơ lụa trên sông Hồng đến trục kinh tế động lực “chung dòng sông cùng ý tưởng”: Bài 2: Những thương cảng trên sông Hồng

Từ con đường tơ lụa trên sông Hồng đến trục kinh tế động lực “chung dòng sông cùng ý tưởng”: Bài 2: Những thương cảng trên sông Hồng

Sông Hồng - con sông gắn liền với sự hình thành và phát triển của nền văn minh người Việt, không chỉ là huyết mạch giao thông quan trọng mà còn từng chứng kiến sự hưng thịnh của nhiều thương cảng sầm uất. Những bến cảng trên sông Hồng đã góp phần thúc đẩy giao thương, kết nối kinh tế và làm nên diện mạo của các đô thị ven sông từ hàng trăm năm trước.

[Ảnh] Thắp đèn tăng ca xây nhà buổi tối

[Ảnh] Thắp đèn tăng ca xây nhà buổi tối

Huyện Mường Khương đăng ký thời điểm từ tháng 7/2024 đến hết tháng 6/2025 sẽ hỗ trợ Nhân dân xóa 4.244 nhà tạm, nhà dột nát. Tính đến thời điểm này huyện Mường Khương đã hỗ trợ các hộ xây dựng mới và sửa chữa 2.604 ngôi nhà, đa số đã hoàn thành, hiện còn 1.604 nhà chưa khởi công.

Bài 5: Không gian sông Hồng - biểu tượng mới của Thủ đô

HIỆN THỰC HÓA GIẤC MƠ ĐÔ THỊ DỌC SÔNG HỒNG: Bài 5: Không gian sông Hồng - biểu tượng mới của Thủ đô

Sông Hồng - dòng chảy mang trong mình bao lớp trầm tích lịch sử, văn hóa và những câu chuyện huyền thoại, từ lâu trở thành biểu tượng gắn bó mật thiết với mảnh đất Thăng Long - Hà Nội. Không chỉ nâng niu, nuôi dưỡng sự phồn thịnh cho kinh kỳ ngàn năm, sông Mẹ còn chuyên chở những giá trị tinh thần, hun đúc bản sắc và khát vọng của bao thế hệ.

fb yt zl tw