Trong số 10 dự án của Chương trình mục tiêu quốc gia 1719 triển khai tại Lào Cai thì duy nhất Dự án 6 “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch” là không có vướng mắc, 9 dự án còn lại đều vướng mắc với mức độ khác nhau.
Đơn cử như Dự án 1 “Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt”, hầu hết các địa phương triển khai rất chậm hoặc chưa triển khai các nội dung hỗ trợ, do rất khó tìm được đối tượng có đủ điều kiện hỗ trợ. Nguyên nhân xuất phát từ việc các hộ thuộc đối tượng hỗ trợ chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đang làm nhà trên đất nông nghiệp, vị trí dự kiến xây dựng nhà ở chưa phù hợp với quy hoạch, chưa có kế hoạch sử dụng đất.
Liên quan đến Dự án 2 “Quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư”, đối với nội dung sắp xếp dân cư tập trung: Do khu vực thực hiện dự án có điều kiện địa hình đồi núi chia cắt phức tạp nên khối lượng san gạt mặt bằng lớn; hệ thống hạ tầng kỹ thuật không đồng bộ, hệ thống giao thông kết nối phải đi qua cầu treo (đường nhỏ hẹp), thiếu điện lưới (phải kéo đường dây dài và lắp trạm biến áp đảm bảo đủ tải). Trong khi đó, theo Hướng dẫn số 02 ngày 12/7/2023 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì chi phí đầu tư xác định theo các mức hỗ trợ của Nghị quyết 05 của HĐND tỉnh theo suất đầu tư chưa phù hợp với thực tế.
Đối với nội dung hỗ trợ sắp xếp dân cư xen ghép, thực tế quỹ đất ở phục vụ nhu cầu sắp xếp dân cư không sẵn có, mà phải rà soát quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; điều chỉnh quy hoạch các điểm dân cư; thu hồi đất, đền bù đất của các hộ khác, chuyển đổi mục đích sử dụng để tạo quỹ đất dân cư. Do việc này phải thực hiện nhiều khâu, nhiều thủ tục; việc triển khai các thủ tục của cấp huyện, cấp xã còn lúng túng và chưa quyết liệt. Vì vậy, năm 2023, ngoài thành phố Lào Cai thì các huyện, thị xã chưa thực hiện để giải ngân nội dung sắp xếp dân cư xen ghép.
Trong số các dự án thì Dự án 3 “Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị” có nhiều vướng mắc hơn cả. Cụ thể, đối với Tiểu dự án 1 “Phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp bền vững gắn với bảo vệ rừng và nâng cao thu nhập cho người dân”, diện tích nghiệm thu lớn, nhân lực của xã mỏng, nhiều hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bị mất, thậm chí có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không xác định được vị trí rừng của gia đình, một số diện tích rừng chuyển trạng thái, do vậy khó khăn cho việc rà soát, nghiệm thu cũng như giải ngân. Thực tế, hầu hết các địa phương giải ngân nguồn vốn này chậm, do những vướng mắc nói trên. Ngoài ra, quy định đối tượng hỗ trợ của dự án chỉ trong phạm vi các xã khu vực II, khu vực III, không hỗ trợ đối với các thôn đặc biệt khó khăn thuộc xã khu vực I nên cũng hạn chế đối tượng được hỗ trợ.
Đối với Tiểu dự án 2 “Hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, vùng trồng dược liệu quý, thúc đẩy khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp và thu hút đầu tư vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”, liên quan đến nội dung hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, các địa phương gặp khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai xây dựng dự án, kế hoạch liên kết, tìm chủ trì liên kết, bởi tại điểm b, Khoản 3, Mục III, Quyết định 1719 quy định: “Các doanh nghiệp (sản xuất, chế biến, kinh doanh), hợp tác xã tham gia chuỗi giá trị có từ 70% tổng số lao động trở lên là người dân tộc thiểu số”. Quy định này rất khó thực hiện, do thực tế hầu như không có doanh nghiệp, hợp tác xã đáp ứng được điều kiện này vì đã có quy định tỷ lệ đối tượng được hỗ trợ theo điểm a, khoản này. Nếu tiếp tục quy định tỷ lệ lao động dân tộc thiểu số của doanh nghiệp, hợp tác xã được tham gia chuỗi giá trị thì địa phương rất khó để có đơn vị đủ điều kiện đăng ký chủ liên kết hoặc đăng ký thành viên tham gia liên kết, trong khi họ có đủ năng lực, kinh nghiệm, tài chính, nhân lực, thị trường đầu ra cho sản phẩm…
Dẫn chứng 3/9 dự án còn nhiều khó khăn, vướng mắc để thấy việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia 1719 vào thực tế còn cả “núi” công việc phải giải quyết.
Những khó khăn, vướng mắc rất nhiều, đòi hỏi cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến xã phải vào cuộc với quyết tâm cao nhất thì mới giải quyết được.
Theo đó, đối với Dự án 1 và Dự án 2, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo các địa phương rà soát, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch bố trí dân cư để giải bài toán quỹ đất bố trí cho dân cư. UBND tỉnh chỉ đạo các ngành đẩy nhanh tiến độ, kịp thời xây dựng hoàn chỉnh các cơ chế, chính sách thực hiện đảm bảo đồng bộ, phù hợp với các văn bản hướng dẫn của trung ương và điều kiện thực tế ở địa phương. Đặc biệt, nghiên cứu triển khai cơ chế thí điểm phân cấp cho cấp huyện trong quản lý, tổ chức thực hiện chương trình giai đoạn 2024 - 2025 theo nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia của Quốc hội đảm bảo phù hợp với thực tế tại tỉnh.