Nới lỏng điều kiện, mở rộng đối tượng hỗ trợ trong Nghị quyết 68

Chi trả hỗ trợ người dân theo Nghị quyết số 68 tại TP Hồ Chí Minh (Ảnh minh họa).
Chi trả hỗ trợ người dân theo Nghị quyết số 68 tại TP Hồ Chí Minh (Ảnh minh họa).

Nghị quyết số 126/NQ-CP sửa đổi, bổ sung nhiều đối tượng được hỗ trợ, đồng thời, giảm các điều kiện để người lao động, người sử dụng lao động được thụ hưởng gói an sinh 26 nghìn tỷ đồng của Nghị quyết số 68/NQ-CP.

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái vừa ký ban hành Nghị quyết số 126/NQ-CP của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 68/NQ-CP về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.

Chính sách tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất

Tại khoản 2, Mục II sửa đổi, bổ sung như sau:

Người sử dụng lao động đã đóng đủ bảo hiểm xã hội hoặc đang tạm dừng đóng vào Quỹ hưu trí và tử tuất đến hết tháng 1/2021 mà bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 dẫn đến phải giảm từ 10% lao động tham gia bảo hiểm xã hội trở lên so với thời điểm tháng 1/2021 (kể cả lao động ngừng việc, tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, thỏa thuận nghỉ không hưởng lương) thì người lao động và người sử dụng lao động được tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất 6 tháng kể từ thời điểm nộp hồ sơ đề nghị.

Đối với trường hợp đã được giải quyết tạm dừng đóng theo Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 9/4/2020 và Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ, nếu đủ điều kiện thì vẫn được giải quyết nhưng tổng thời gian tạm dừng đóng không quá 12 tháng.

Chính sách hỗ trợ người lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương

Tại khoản 4 Mục II sửa đổi, bổ sung như sau:

Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động, đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tính đến thời điểm ngay trước khi tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương; có thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương trong thời hạn của hợp đồng lao động từ 15 ngày liên tục trở lên, tính từ ngày 1/5/2021 đến hết ngày 31/12/2021 và thời điểm bắt đầu tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương tính từ ngày 1/5/2021 đến hết ngày 31/12/2021 và thuộc một trong các trường hợp sau: phải điều trị Covid-19, cách ly y tế, trong các khu vực bị phong tỏa, không thể đến địa điểm làm việc do yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch Covid-19; do người sử dụng lao động tạm dừng hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thể quyền để phòng, chống dịch Covid-19 hoặc có trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo nguyên tắc của Chỉ thị số 16/CT-TTg hoặc bố trí lại sản xuất, lao động để phòng, chống dịch Covid-19 được hỗ trợ một lần như sau: từ 15 ngày liên tục trở lên đến dưới 1 tháng mức 1.855.000 đồng/người; từ 1 tháng trở lên mức 3.710.000 đồng/người.

Chính sách hỗ trợ gười lao động bị ngừng việc

Tại khoản 5 Mục II sửa đổi, bổ sung như sau:

Người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động bị ngừng việc vì lý do theo khoản 3 Điều 99 Bộ luật Lao động; đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tính đến thời điểm ngay trước khi ngừng việc và thuộc một trong các trường hợp sau: phải điều trị Covid-19, cách ly y tế, trong các khu vực bị phong tỏa hoặc không thể đến địa điểm làm việc do yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo nguyên tắc của Chỉ thị số 16/CT-TTg; do người sử dụng lao động phải tạm dừng hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc có trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo nguyên tắc của Chỉ thị số 16/CT-TTg, hoặc bố trí lại sản xuất, lao động để phòng, chống dịch Covid-19 từ 14 ngày trở lên trong thời gian từ ngày 1/5/2021 đến hết ngày 31/12/2021 được hỗ trợ một lần 1.000.000 đồng/người.

Chính sách hỗ trợ người lao động chấm dứt hợp đồng lao động

Tại khoản 6 Mục II sửa đổi, bổ sung như sau:

Người lao động làm việc theo hợp đồng, đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, phải chấm dứt hợp đồng lao động trong thời gian từ ngày 1/5/2021 đến hết ngày 31/12/2021 và thuộc một trong các trường hợp sau: phải cách ly y tế, trong các khu vực bị phong tỏa hoặc không thể đến địa điểm làm việc do yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch bệnh Covid-19; do người sử dụng lao động bị tạm dừng hoạt động theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch bệnh Covid-19 hoặc người sử dụng lao động có trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại đại diện, địa điểm sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thực hiện các biện pháp phòng, chống dich theo nguyên tắc của Chỉ thị số 16/CT-TTg hoặc bố trí lại sản xuất, lao động để phòng, chống dịch Covid-19 nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp được hỗ trợ một lần 3.710.000 đồng/người.

Chính sách hỗ trợ bổ sung cho người cao tuổi và người khuyết tật

Tại khoản 7 Mục II bổ sung như sau:

Người cao tuổi và người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 5 của Nghị định số 20/2021-NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ, phải điều trị nhiễm Covid-19 (F0) hoặc phải cách ly y tế theo quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (F1) thì được ngân sách Nhà nước hỗ trợ thêm 1 triệu đồng/người trong thời gian điều trị, cách ly từ ngày 27/4/2021 đến hết ngày 31/12/2021.

Chính sách hỗ trợ hộ kinh doanh

Tại khoản 10 Mục II sửa đổi, bổ sung như sau:

Hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh và có trong danh mục của cơ quan thuế; hộ kinh doanh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, kinh doanh thời vụ, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký hộ kinh doanh phải dừng hoạt động từ 15 ngày trở lên do yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch bệnh Covid-19 hoặc do có địa điểm kinh doanh trên địa bàn phải thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo nguyên tắc của Chỉ thị số 16/CT-TTg trong thời gian từ ngày 1/5/2021 đến hết ngày 31/12/2021 được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một lần 3.000.000 đồng/hộ.

Cho vay trả lương ngừng việc

Tại điểm a khoản 11 Mục II sửa đổi, bổ sung như sau:

Người sửa dụng lao động được vay vốn tại Ngân hàng chính sách xã hội với lãi suất 0% và không phải thực hiện biện pháp bảo đảm tiền vay để trả lương ngừng việc đối với người lao động đang tham gia BHXH bắt buộc phải ngừng việc liên tục từ 15 ngày liên tục trở lên theo quy định tại khoản 3 Điều 99 Bộ luật Lao động, trong thời gian từ ngày 1/5/2021 đến hết ngày 31/3/2022.

Mức cho vay tối đa bằng mức lương tối thiểu vùng đối với số người lao động theo thời gian trả lương ngừng việc thực tế tối đa 3 tháng.

Thời hạn vay vốn dưới 12 tháng.

Cho vay trả lương phục hồi sản xuất

Tại điểm b khoản 11 Mục II sửa đổi, bổ sung như sau:

Người sử dụng lao động phải tạm dừng hoạt động do yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch Covid-19; người sử dụng lao động có trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo nguyên tắc của Chỉ thị số 16/CT-TTg và người sử dụng lao động hoạt động trong lĩnh vực vận tải, hàng không, du lịch, dịch vụ lưu trú và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trong thời gian từ ngày 1/5/2021 đến hết ngày 31/3/ 2022 được vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội với lãi suất 0% và không phải thực hiện biện pháp bảo đảm tiền vay để trả lương cho người lao động.

Mức cho vay tối đa bằng mức lương tối thiểu vùng đối với số người lao động đang làm việc theo hợp đồng lao động và đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo thời gian trả lương thực tế tối đa 3 tháng.

Thời hạn vay vốn dưới 12 tháng.

Quy định số thực chi của các địa phương

Tại điểm b khoản 2 Mục III sửa đổi, bổ sung như sau:

Căn cứ quy định tại điểm đ khoản 2 Mục I Nghị quyết này, quy định của pháp luật có liên quan và số thực chi ngân sách của các địa phương (có xác nhận của Kho bạc Nhà nước) để xem xét, bổ sung từ ngân sách Trung ương cho ngân sách địa phương.

Trường hợp dịch bệnh xảy ra trên phạm vi lớn, ngân sách địa phương không đủ nguồn lực để thực hiện, căn cứ đề nghị của UBND cấp tỉnh, Bộ Tài chính bổ sung ngân sách cho địa phương tối đa bằng 70% mức dự kiến đề xuất ngân sách Trung ương hỗ trợ để kịp thời thực hiện chính sách.

Sau khi địa phương có báo cáo kết quả chi ngân sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động (địa phương chịu trách nhiệm về tính xác thực của số liệu báo cáo), Bộ Tài chính bổ sung hoặc thu hồi dự toán ngân sách Trung ương trên cơ sở thực tế hỗ trợ đối tượng theo quy định; tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình, kết quả thực hiện.

Nghị quyết số 126/NQ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 8/10/2021.

Đến ngày 3/10:

Nguồn kinh phí đã hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động theo Nghị quyết số 68, Quyết định số 23 là gần 15,8 nghìn tỷ đồng.

Qua đó, hỗ trợ hơn 19 triệu lượt đối tượng (trong đó gồm 379.610 lượt đơn vị sử dụng lao động, gần 18,68 triệu lượt người lao động và các đối tượng khác).

Tại 25 tỉnh, thành phố phía nam, tổng các chính sách hỗ trợ là trên 11,77 nghìn tỷ đồng (chiếm 75,1% toàn quốc), hỗ trợ hơn 11,86 triệu đối tượng (chiếm 62,4% toàn quốc).

Báo Nhân dân

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Thị xã Sa Pa triển khai “5 không” với xe điện và các cơ sở kinh doanh dịch vụ trên địa bàn

Thị xã Sa Pa triển khai “5 không” với xe điện và các cơ sở kinh doanh dịch vụ trên địa bàn

Trước thực trạng một số phương tiện xe điện dừng, đỗ, đón trả khách sai quy định, chạy sai tuyến thí điểm, chèo kéo, tranh giành khách, một số nhà hàng chi phần trăm cho lái xe, bán hàng sai giá niêm yết… gây ảnh hưởng xấu tới hình ảnh du lịch Sa Pa, UBND thị xã Sa Pa thực hiện niêm yết nội dung “5 không” trên xe điện đang hoạt động và các cơ sở kinh doanh dịch vụ trên địa bàn.

Lào Cai: 5 địa phương hoàn thành thu thập thông tin điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024

Lào Cai: 5 địa phương hoàn thành thu thập thông tin điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024

Ông Phùng Đắc Hưng, Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Lào Cai cho biết: Tính đến chiều 23/4, có 5 huyện, thành phố của tỉnh đã hoàn thành công tác thu thập thông tin điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024, gồm các huyện: Bát Xát, Bắc Hà, Bảo Yên, Mường Khương và thành phố Lào Cai.

Hưởng ứng Tuần lễ quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường năm 2024

Hưởng ứng Tuần lễ quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường năm 2024

Tuần lễ quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường năm 2024 có chủ đề “Đảm bảo cấp nước sạch an toàn thích ứng với biến đổi khí hậu”. Hưởng ứng tuần lễ, tỉnh Lào Cai triển khai nhiều hoạt động từ ngày 29/4 - 6/5/2024, có thể kéo dài đến ngày Môi trường thế giới (5/6/2024) và lồng ghép với các sự kiện, ngày lễ lớn khác.

Phát động Giải báo chí tuyên truyền về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2024

Phát động Giải báo chí tuyên truyền về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2024

Giải thưởng nhằm tôn vinh đội ngũ phóng viên, nhà báo, thông tin viên trên cả nước thúc đẩy nâng cao hiệu quả và sự lan tỏa kết quả triển khai Chương trình Quốc gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019-2030, góp phần từng bước hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam vào năm 2050 theo cam kết tại Hội nghị COP26.

Hơn 400 suất cháo dành tặng người bệnh

Hơn 400 suất cháo dành tặng người bệnh

Ngày 22/4, Tổ công tác xã hội, Bệnh viện Đa khoa tỉnh đã kết nối với Chi hội Happy Women Leader Network Lào Cai, Nhà hàng Hồng Long phối hợp tổ chức chương trình từ thiện dành cho người bệnh.

Ngày Trái Đất 22/4: Hạn chế rác thải nhựa để bảo vệ hành tinh

Ngày Trái Đất 22/4: Hạn chế rác thải nhựa để bảo vệ hành tinh

Ngày Trái Đất được Liên hợp quốc phát động vào ngày 22/4 hằng năm nhằm vận động mọi người nâng cao nhận thức về các giá trị của môi trường trên Trái Đất. Đồng thời, đây là thời điểm để mọi người hưởng ứng các phong trào bảo vệ môi trường, ngăn chặn các thảm họa do biến đổi khí hậu gây ra trên toàn thế giới. Chủ đề của Ngày Trái Đất năm 2024 là “Hành tinh và Nhựa”.

fb yt zl tw