
Ngay sau khi hoàn thành việc sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức mô hình chính quyền địa phương hai cấp, Ngân hàng Chính sách xã hội Bảo Thắng đã tham mưu cấp ủy, chính quyền duy trì các điểm giao dịch ngay tại trụ sở các xã cũ. Cách làm này không chỉ giữ vững sự liên tục của dịch vụ tài chính chính sách mà còn tạo thói quen tương tác thuận tiện cho người vay - trả tại địa bàn quen thuộc. Điểm giao dịch được trang bị cơ sở vật chất cần thiết, bố trí lịch cố định, phối hợp lực lượng công an, dân quân và tổ chức đoàn thể bảo đảm an ninh, trật tự để người dân yên tâm đến giao dịch. Truyền thông chính sách được triển khai theo chiều sâu: qua mạng lưới hội nông dân, hội phụ nữ, cựu chiến binh, đoàn thanh niên, tại điểm giao dịch (niêm yết công khai chương trình, điều kiện vay, lãi suất, quy trình) và trong sinh hoạt tổ tiết kiệm–vay vốn.
“Duy trì điểm giao dịch tại trụ sở các xã cũ và làm truyền thông qua hệ thống hội đoàn thể giúp chúng tôi đến gần dân hơn, vừa giảm chi phí giao dịch, vừa nâng trách nhiệm sử dụng vốn. Kiểm tra cho thấy vốn được dùng đúng mục đích, chủ yếu cho chăn nuôi, trồng rừng, kinh doanh dịch vụ. Hiện địa bàn vận hành 16 chương trình tín dụng chính sách".
Việc “đặt người dân ở trung tâm” còn thể hiện ở quy trình tư vấn trước–sau vay: cán bộ tín dụng cùng tổ tiết kiệm - vay vốn lắng nghe, giải thích điều kiện, hướng dẫn xây dựng phương án sản xuất phù hợp năng lực hộ, khuyến nghị dòng tiền - thời điểm trả nợ ăn khớp chu kỳ cây con. Sau vay, tổ tiếp tục giám sát, nhắc hạn, hỗ trợ kỹ thuật cơ bản, kết nối thông tin thị trường ở mức cần thiết.

Sự vào cuộc đồng bộ của chính quyền, Ngân hàng Chính sách xã hội và hội đoàn thể đã định hình rõ ba trụ cột tăng thu nhập bền vững ở cơ sở: trồng rừng -chăn nuôi - dịch vụ. Ở mỗi trụ cột, vốn ưu đãi đóng vai trò “đòn bẩy” để hộ nghèo, cận nghèo hình thành dòng tiền hợp lý, tránh sa vào vay nóng, vay tự phát.

Trồng rừng là sinh kế quan trọng cho người dân ở nhiều thôn bản. Ở Khe Tắm, ông Đặng Văn Hà là một ví dụ điển hình. Ông kể: ban đầu, gia đình dùng vốn vay để nuôi đàn trâu sinh sản, phương án phù hợp điều kiện chăn thả. Khi quỹ đất thay đổi, ông bán trâu chuyển sang trồng rừng: quế, bồ đề, mỡ. Mô hình này cho phép tạo thu ổn định: quế bóc tỉa luân phiên; mỡ, bồ đề đến tuổi mới khai thác, để cây non lên tiếp.
Thu nhập từ quế và mỡ mỗi năm trên 100 triệu đồng sau khi trừ chi phí. Nhờ vậy, tôi thoát nghèo, xây được nhà, nuôi 4 con ăn học, trong đó 2 cháu đang học đại học - ông Hà chia sẻ.
Câu chuyện của ông cho thấy tính linh hoạt trong sử dụng vốn: mục tiêu không phải giữ một mô hình cố định, mà là điều chỉnh kế hoạch theo biến động đất đai, thị trường, lao động.


Cũng tại thôn Khe Tắm, bà Lý Thị Hoa chọn quế làm cây chủ lực. Khoản vay 100 triệu đồng được bà phân bổ cho chăm sóc, bóc tỉa, khoanh nuôi, chú trọng đúng kỹ thuật để nâng chất lượng vỏ, tăng giá trị bóc bán.
Nhờ bóc tỉa quế, tôi đã trả được 50 triệu, phần còn lại sẽ tất toán khi đến kỳ khai thác cuối năm nay - Hoa chia sẻ.
Kinh tế khá lên, bà xây được nhà, mua xe máy phục vụ sản xuất và buôn bán nhỏ, tạo vòng quay vốn mới từ chính nguồn thu hợp pháp, minh bạch.


Chăn nuôi, vườn đem lại dòng tiền đều cho nhiều hộ, nhất là những gia đình có lao động thường xuyên ở nhà. Ở thôn Phú Thịnh 2, chị Vũ Thị Hồng Nhung triển khai mô hình “vườn - chuồng”: trồng rau màu kết hợp nuôi lợn, gà. Khoản vay 100 triệu đồng được chia thành ba phần: giống, vật tư; cải tạo chuồng trại; và dự phòng rủi ro (dịch bệnh, giá thức ăn chăn nuôi).
Chị Nhung cho biết: Đến nay, tôi đã trả 50 triệu đồng, còn dư nợ 50 triệu đồng. Nếu có điều kiện, tôi muốn vay tiếp để mua lợn giống và mở rộng diện tích rau, bởi vốn chính sách là trợ lực hiệu quả giúp gia đình từng bước thoát nghèo.
Trường hợp của chị nhấn mạnh vai trò kỷ luật tài chính: trả nợ đúng hạn, tái đầu tư có kế hoạch, nâng tiêu chuẩn vệ sinh chuồng trại để tăng năng suất, giảm rủi ro.

Ở thôn Khe Tắm, chị Bàn Thị Nhắn, Tổ trưởng tổ tiết kiệm và vay vốn, nhớ lại: Trước đây, khoảng 90% hộ trong thôn là hộ nghèo, 80% là đồng bào Dao, sản xuất chủ yếu tự cung tự cấp. Tôi cùng tổ đã tuyên truyền, hướng dẫn bà con tiếp cận các chương trình tín dụng như hộ nghèo, cận nghèo, thoát nghèo, sản xuất kinh doanh vùng khó khăn và nước sạch - vệ sinh môi trường. Đến nay, thôn có 44 - 45 hộ đang vay, với dư nợ khoảng 4 tỷ đồng; nhà tạm hầu như không còn, thay bằng nhà xây kiên cố; công trình nước sạch, nhà tắm, nhà vệ sinh đạt gần như 100% hộ. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, còn 0,8% - con số biết nói về hiệu quả thiết thực khi tín dụng chính sách gắn với tổ chức triển khai sát thực tế.
Một ưu điểm nổi bật của mô hình ở xã Bảo Thắng là kỷ luật tiết kiệm và trả nợ đúng hẹn. Nhiều hộ đã ghi chép dòng tiền, canh mùa thu - trả để không rơi vào thế bị động. Với quế, kỹ thuật bóc tỉa luân phiên cho dòng tiền rải đều, giảm áp lực đến kỳ trả nợ. Với cây mỡ, bồ đề, lịch khai thác theo tuổi cây được đặt vào giai đoạn giá bán tốt, cộng với diện tích kế tiếp đã trồng sẵn, tạo độ trễ an toàn cho vòng vốn. Ở chăn nuôi, tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn sinh học được nâng lên, giảm rủi ro dịch bệnh, yếu tố dễ làm đứt gãy kế hoạch trả nợ.