Quay về E-magazine Theo dõi Báo Lào Cai trên Google News
Quản lý diện tích thảo quả dưới tán rừng tự nhiên

Quản lý diện tích thảo quả dưới tán rừng tự nhiên

Với sự vào cuộc chủ động của các cấp, các ngành và nhận thức từ phía người dân, diện tích cây thảo quả dưới tán rừng tự nhiên trên địa bàn tỉnh đã được kiểm soát.

4.jpg

Những năm trước đây, thảo quả được gây trồng và phát triển nhiều ở các xã vùng cao huyện Văn Bàn. Đến hết năm 2020, trên địa bàn huyện có khoảng 1.300 hộ trồng với hơn 2.400 ha thảo quả, tổng sản lượng thảo quả khô hằng năm đạt khoảng 500 tấn. Đây là loại cây trồng mang lại giá trị kinh tế cao, góp phần làm giàu cho người dân địa phương.

Ông Triệu Văn Thanh ở thôn Ta Náng, xã Nậm Xé cho biết: Gia đình tôi trồng hơn 10 ha thảo quả. Những năm được mùa, được giá, gia đình thu hơn 200 triệu đồng. Cây thảo quả không tốn nhiều công chăm sóc mà mang lại giá trị cao nên hầu như gia đình nào ở Nậm Xé cũng trồng.

Tuy nhiên, trồng và phát triển cây thảo quả có tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học của rừng. Khi chăm sóc cây thảo quả, người dân phải phát những cây gỗ nhỏ, do vậy ảnh hưởng đến khả năng tái sinh của rừng. Ước tính, để sấy khô 100 kg quả tươi phải cần 3 - 4 m3 củi, lượng chất đốt này do người dân chặt từ rừng và rừng lại tiếp tục bị tàn phá, suy kiệt, tiềm ẩn nguy cơ cháy rừng.

1.jpg

Để bảo vệ và phát triển rừng tự nhiên bền vững, huyện Văn Bàn đã xây dựng phương án quản lý sản xuất thảo quả dưới tán rừng tự nhiên giai đoạn 2020 - 2030, trong đó có việc chỉ đạo xử lý nghiêm các trường hợp phát phá, lấn chiếm rừng tự nhiên trái pháp luật để mở rộng diện tích trồng thảo quả.

Tại huyện Bát Xát, năm 2020, ngay sau khi có chỉ đạo của UBND tỉnh về việc tăng cường quản lý, bảo vệ rừng, quản lý việc canh tác thảo quả dưới tán rừng tự nhiên, UBND huyện đã giao Hạt Kiểm lâm chủ trì phối hợp với các xã, thị trấn, các cơ quan có liên quan tổ chức tuyên truyền đến người dân, trọng tâm là hướng dẫn người dân canh tác thảo quả bền vững, không trồng mở rộng trong rừng tự nhiên, không trồng lại trên diện tích cũ; nghiêm cấm phát dọn cây tái sinh, cây gỗ trong quá trình chăm sóc thảo quả; không dựng lều, lán trong rừng để làm nơi sinh hoạt và sản xuất thảo quả; không chặt phá cây rừng để sấy thảo quả...

Chuyển biến trong công tác quản lý, bảo vệ rừng (1).jpg

Ông Ngô Kiên Trung, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm, Trưởng Ban Quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên Bát Xát cho biết: Toàn bộ diện tích thảo quả của huyện Bát Xát đã được đơn vị phối hợp với chủ rừng và UBND cấp xã lập danh sách quản lý, từ đó xây dựng phương án phục hồi rừng khu vực canh tác thảo quả đang bị suy thoái, đồng thời triển khai thực hiện hiệu quả việc khoán bảo vệ rừng để người dân địa phương sống gần rừng tham gia quản lý, bảo vệ rừng, góp phần tăng thu nhập cho người dân.

Việc triển khai đồng bộ các biện pháp đã mang lại kết quả rõ rệt trong việc giảm diện tích cây thảo quả. Từ năm 2015 đến nay, trên địa bàn huyện Bát Xát không có diện tích trồng mới, trồng lại, vì vậy diện tích cây thảo quả ngày càng thu hẹp, nhất là trong rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Hiện, huyện Bát Xát có khoảng 4.267 ha thảo quả, giảm 400 ha so với năm 2015.

3a.jpg

Thực hiện chủ trương của tỉnh về việc không mở rộng diện tích thảo quả, tiến tới xóa bỏ cây thảo quả trong rừng tự nhiên vào năm 2030, Chi cục Kiểm lâm tỉnh đã tham mưu cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND tỉnh ban hành các văn bản chỉ đạo, đôn đốc trong quản lý sản xuất thảo quả bền vững.

3.jpg

Các đơn vị, địa phương đã chủ động tổ chức tuyên truyền và ký cam kết sản xuất thảo quả bền vững gắn với bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng với 15.027 lượt người dân. Tuyên truyền, vận động người dân tự nguyện tháo dỡ 3.048 lều, lán sấy thảo quả trong rừng.

Những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh không phát sinh diện tích trồng mới, không trồng lại các diện tích già hóa. Hiện nay, tổng diện tích thảo quả trên địa bàn tỉnh khoảng 12.477 ha, giảm 1.602 ha so với năm 2015.

Hiệu quả từ cây lâm nghiệp bản địa (1).jpg

Cùng với đó là chỉ đạo lực lượng kiểm lâm bám địa bàn, tăng cường tuần tra, kiểm soát, phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi phát, phá, lấn chiếm đất rừng tự nhiên để trồng thảo quả, đặc biệt là canh tác thảo quả không an toàn gây cháy rừng. Đồng thời, tổ chức triển khai hiệu quả chính sách bảo vệ và phát triển rừng, tạo điều kiện cho các hộ cam kết không sản xuất thảo quả dưới tán rừng được nhận khoán bảo vệ rừng…

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Khẩn trương rà soát, báo cáo dự án đầu tư có khó khăn, tồn đọng kéo dài trên Hệ thống đầu tư công quốc gia

Khẩn trương rà soát, báo cáo dự án đầu tư có khó khăn, tồn đọng kéo dài trên Hệ thống đầu tư công quốc gia

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện số 26/CĐ-TTg ngày 31/3/2025 yêu cầu các bộ ngành, địa phương khẩn trương rà soát, báo cáo các dự án đầu tư có khó khăn, vướng mắc, tồn đọng kéo dài trên Hệ thống đầu tư công quốc gia.

[Ảnh] "Người nhện" đem quả ngọt xuống núi

[Ảnh] "Người nhện" đem quả ngọt xuống núi

Vùng trồng dứa Mường Khương đang vào vụ thu hoạch quả. Dứa ở đây thường được trồng ở núi cao nên việc thu hoạch, vận chuyển cực kỳ gian khổ và tiềm ẩn nhiều nguy hiểm. Vào mùa thu hoạch dứa, thường những nam thanh niên sẽ đảm nhận công việc này. Trên lưng gùi hơn 100kg quả dứa, tay chống gậy bám chặt sườn núi dốc dựng đứng, họ không khác gì "người nhện" oằn lưng đem quả thơm xuống núi.

Sức vươn Việt Tiến

Sức vươn Việt Tiến

Đạt chuẩn nông thôn mới năm 2015, Việt Tiến là một trong những xã “về đích” sớm chương trình này, mang lại diện mạo mới, khang trang cho vùng đất trù phú bên dòng sông Chảy, phía Nam của huyện Bảo Yên.

Từ "con đường tơ lụa" trên sông Hồng đến trục động lực kinh tế "chung một dòng sông"

Từ "con đường tơ lụa" trên sông Hồng đến trục động lực kinh tế "chung một dòng sông"

Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, có nhiều “con đường tơ lụa” được nhắc đến hiện nay, như tuyến đường thương mại Đông - Tây giữa Hy Lạp và Trung Quốc bắt đầu mở trong thế kỷ I và II TCN; hay “con đường tơ lụa” chính đi từ thủ đô của Trung Quốc qua Trung Á đến châu Âu... Và có một “con đường tơ lụa” nổi tiếng trên sông Hồng vẫn chảy suốt từ thời cổ đại đến hôm nay, đang trở thành “con đường tơ lụa” trong thời đại mới.

Tạo cơ sở hình thành khu hợp tác kinh tế qua biên giới

Dự án Cầu đường bộ qua sông Hồng Bát Xát (Việt Nam) - Bá Sái (Trung Quốc): Tạo cơ sở hình thành khu hợp tác kinh tế qua biên giới

Khu vực biên giới giữa tỉnh Lào Cai (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) từ lâu đã được xem là một trong những điểm kết nối kinh tế, văn hóa và giao thương quan trọng giữa hai nước. Trong đó, các cây cầu biên giới đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy kinh tế biên mậu, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị.

Từ con đường tơ lụa trên sông Hồng đến trục kinh tế động lực “chung dòng sông cùng ý tưởng”: Bài cuối: Trục kinh tế động lực “chung dòng sông cùng ý tưởng”

Từ con đường tơ lụa trên sông Hồng đến trục kinh tế động lực “chung dòng sông cùng ý tưởng”: Bài cuối: Trục kinh tế động lực “chung dòng sông cùng ý tưởng”

Việc biến “con đường tơ lụa” trên sông Hồng từ thời cổ đại trở thành “con đường tơ lụa” trong thời đại mới; kiến tạo tương lai, hợp tác cùng có lợi; mở ra hành lang thương mại mới đòi hỏi các tỉnh, thành phố của Việt Nam và Trung Quốc cần có sự hợp tác chặt chẽ với tinh thần “chung dòng sông cùng ý tưởng”.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì họp đôn đốc các dự án đường cao tốc

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì họp đôn đốc các dự án đường cao tốc

Chiều 29/3, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải chủ trì cuộc họp của Thường trực Chính phủ với các Đoàn kiểm tra của Chính phủ kiểm tra, đôn đốc triển khai các dự án đường bộ cao tốc trong cả nước.

Bài cuối: Kiến tạo không gian phát triển mới

HIỆN THỰC HÓA GIẤC MƠ ĐÔ THỊ DỌC SÔNG HỒNG: Bài cuối: Kiến tạo không gian phát triển mới

Sông Hồng - dòng chảy đỏ nặng phù sa, nơi hun đúc nền văn minh rực rỡ, nơi in dấu những bước chân đầu tiên của người Việt trên hành trình dựng nước và giữ nước. Hàng nghìn năm qua, con sông ấy không chỉ mang lại nguồn sống cho bao thế hệ mà còn kết nối những vùng đất, những nền văn hóa, tạo nên một vùng Bắc Bộ trù phú và giàu bản sắc.

fb yt zl tw