Trong căn phòng trưng bày hàng nghìn cổ vật có niên đại từ vài chục năm đến hàng nghìn năm như đồng hồ cổ, xe máy, xe đạp cổ, liềm, hái, niêu đất, bát, đĩa, vại, cối, tiền xu, ông Cường kể cho tôi nghe về từng hiện vật, mỗi hiện vật chứa đựng giá trị văn hóa, lịch sử riêng.
Cơ duyên thôi thúc ông Cường đến với nghề khảo cổ học bắt đầu từ những năm tháng còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông. Ngày ấy, ông đã yêu thích môn Lịch sử, tìm đọc nhiều sách nghiên cứu và tìm hiểu về đồ cổ. Ông quyết định theo học chuyên ngành Bảo tàng, Đại học Văn hóa Hà Nội để có cơ hội tiếp xúc với các giáo sư nổi tiếng về khảo cổ, lĩnh hội nhiều kiến thức về lĩnh vực mà mình yêu thích.
Những tiết học về khảo cổ, về những bí ẩn trong lòng đất có sức hút kỳ lạ với tôi. Dù bạn bè, gia đình đều nói theo nghề khảo cổ là dại, là chọn cái nghèo để sống nhưng tôi không hề nản chí.
Quyết định gắn cuộc đời với nghiệp khảo cổ, ông Cường vẫn chưa hình dung được những vất vả, khó khăn mà nghề này mang đến. Ông nhớ lại: Có những chuyến đi khai quật ở vùng cao, được ăn, ở cùng bà con, được đắm chìm trong văn hóa bản địa, càng đi, càng nghiên cứu sâu về lịch sử, tôi càng thấy yêu quê hương, yêu nghề nhiều hơn. Tôi nhớ nhất là lần đi khai quật di tích cự thạch ở Tả Van, Sa Pa năm 2003. Mùa mưa, lương thực khan hiếm, cả đoàn phải giăng bạt ngủ giữa rừng vầu, vừa lạnh vừa đói. May mắn cả đoàn được người dân bản địa nấu cơm “tiếp tế”. Dù sử sách và một số tài liệu đã từng nhắc đến di tích cự thạch nhưng chỉ khi chứng kiến các hiện vật được “khơi” lên từ lòng đất, chúng tôi mới thấy tầm vóc một nền móng quần thể kiến trúc cổ giữa đại ngàn hoang vu. Những “bí mật” tìm thấy là hệ thống những phiến đá bằng phẳng khổng lồ có niên đại hàng nghìn năm, mang màu sắc tâm linh của cả một vùng đất.
Ông Cường còn kể về những chuyến “đào bới” và tìm kiếm được gần cả tấn hiện vật bằng đá, điểm tập kết lại xa, phải vận chuyển thủ công bằng cách gánh những bao đá nặng trĩu trên lưng. Hoặc kỷ niệm những lần lặn lội tới nhà dân để thuyết phục cho bà con tin tưởng giao cho mình những kỷ vật vốn rất quý. Vất vả là vậy nhưng mỗi khi cổ vật hiện ra trong lớp đất, đá hoặc mỗi lần tiếp nhận cổ vật người dân hiến tặng, cả đoàn lại vui như “vớ được vàng”.
Hỏi về những kỹ năng cần thiết của người làm công tác khảo cổ, ông Cường trả lời: Ngoài đam mê, sức khỏe, sự kiên trì thì nhà khảo cổ học cần có sự am hiểu, thông tuệ sâu sắc về đồ cổ, mỹ thuật của từng thời kỳ, từng trường phái, khám phá ra những thông điệp thời gian được ấn ký trên những món đồ của người xưa. Hiện nay, đã có nhiều máy móc, phương tiện kỹ thuật hỗ trợ đo đạc, định vị nhưng việc đào bới vẫn phải sử dụng những công cụ thô sơ và làm thật nhẹ nhàng.
Để công tác khảo cổ đạt hiệu quả, ông Cường cùng các cộng sự đã kết nối với già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng. Họ vừa là người phát hiện, thuyết phục người dân hiến tặng cổ vật, vừa là nhân chứng lịch sử, văn hóa hỗ trợ công tác xác minh, nghiên cứu.
Sưu tầm hiện vật đã khó, việc gìn giữ càng khó hơn, từ phân loại chất liệu, chủ đề, ghi số kiểm kê, sắp xếp lên giá, viết lý lịch, vệ sinh định kỳ… cho hiện vật đều phải được thực hiện nhuần nhuyễn, nhẹ nhàng, trách nhiệm, giữ cho hiện vật nguyên vẹn nhất có thể.
Lào Cai là cái nôi của cổ vật với sự giao thoa văn hóa Đông Sơn, Hán, Điền và văn hóa đặc sắc của 25 dân tộc. Những nhà khảo cổ như ông Cường được ví như những “chú ong” cần mẫn, kết nối quá khứ với hiện tại và tương lai, để hơn 16.000 hiện vật được sưu tầm trong những năm qua sẽ từ quá khứ bước vào đời thực. Đó sẽ là những minh chứng về giá trị lịch sử, văn hóa, là kho tư liệu quý báu về vùng miền mà những người làm công tác bảo tồn, bảo tàng luôn nỗ lực, dành sự trân trọng, nâng niu để công chúng hiểu được lịch sử quá trình phát triển của Lào Cai.