Gần 60 năm qua, bà Nguyễn Thị Tám (sinh năm 1939, ở tổ 6, phường Sa Pa, thị xã Sa Pa) luôn khắc sâu trong lòng những lời dặn của chồng, một mình vượt bao vất vả, nuôi các con khôn lớn, trưởng thành. Chồng của bà là liệt sỹ Trần Văn Hải, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ tại chiến trường Gia Định (Sài Gòn).
“Ngày đó, tôi làm việc tại Bưu điện huyện Sa Pa (nay là thị xã Sa Pa), còn ông Hải công tác tại Tỉnh đội Lào Cai. Năm 1955, ông Hải cùng đồng đội lên Sa Pa làm nhiệm vụ tiễu phỉ. Ông Hải là người rất thông minh, lại sống tình cảm, trách nhiệm nên tôi cảm mến ngay từ lần gặp đầu tiên. Đến năm 1957, chúng tôi nên duyên chồng vợ bằng một đám cưới giản dị, ấm cúng do hai bên gia đình tổ chức” - bà Tám nhớ lại.
Mỗi năm, ông Hải chỉ có 12 ngày phép về thăm gia đình. Vì thế, 12 năm yêu thương và nên nghĩa vợ chồng nhưng thời gian ông bà được ở bên nhau chỉ tính bằng vài tháng ngắn ngủi.
Năm 1965, ông Hải được đơn vị cho về nghỉ phép 3 ngày trước khi vào Nam chiến đấu. Người con trai út là Trần Quốc Thái mới tròn 1 tuổi, còn chưa nhớ mặt cha.
Bức ảnh cưới của hai vợ chồng là kỷ vật duy nhất bà Tám còn giữ lại được sau nhiều lần “chạy giặc”. Nhìn đôi bàn tay xù xì, nhẹ nhàng đặt lên tấm ảnh cưới, tôi cảm nhận được tình yêu và nỗi nhớ chồng chưa bao giờ nguôi ngoai của người phụ nữ đã ngoài 80 tuổi.
Anh Trần Quốc Thái - con trai út của bà Tám - tâm sự: Không biết bao nhiêu lần mẹ ôm chị em tôi vào lòng rồi khóc. Thế nhưng, ai đó nhắc đến chuyện đi bước nữa thì mẹ đều gạt đi. Chúng tôi tự hào về cha, biết ơn mẹ vì sự hy sinh và tình yêu son sắt, thủy chung đó.
Năm nay bà Tám bước sang tuổi 85 nhưng vẫn hoạt bát, minh mẫn, sống vui vầy cùng con cháu. Tình yêu thủy chung, đức hy sinh cao cả của người vợ, người mẹ khiến bà trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc, là tấm gương sáng để con cháu noi theo.
Bệnh binh hạng 2/3 Đào Thế Yên (sinh năm 1960 ở thôn Vạch, xã Cam Đường, thành phố Lào Cai) được người dân trong thôn yêu mến, nể phục bởi lối sống trách nhiệm với cộng đồng. 30 năm đảm nhận cương vị bí thư chi bộ thôn cũng là 30 năm ông thường xuyên đi sớm, về khuya vì công việc của thôn xóm.
Tháng 6/1977, ông Đào Thế Yên nhập ngũ và tham gia chiến đấu ở biên giới Tây Nam. Tháng 2/1979, đơn vị ông di chuyển ra Bắc, làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc (tỉnh Hoàng Liên Sơn). Từ năm 1980 - 1988, ông Yên là Đại úy, Chính trị viên Đại đội 3, làm nhiệm vụ huấn luyện quân tại Trung đoàn 53, Sư đoàn 344 (Binh đoàn Trường Sơn) đóng quân tại xã Xuân Giao (huyện Bảo Thắng). Đến năm 1990, ông Yên xuất ngũ, nghỉ chế độ bệnh binh.
Sau khi trở về địa phương, ông Đào Thế Yên tiếp tục được chính quyền xã, bà con trong thôn tín nhiệm bầu giữ chức Bí thư Chi bộ thôn Vạch. Thôn Vạch hiện có 160 hộ với 560 nhân khẩu. Cũng như nhiều thôn khác ở xã Cam Đường, khi bước vào xây dựng thôn kiểu mẫu, thôn Vạch gặp nhiều khó khăn về nguồn lực, nhất là quỹ đất hạn hẹp. Trong bối cảnh đó, việc vận động người dân hiến đất, hiến tường bao để mở rộng các tuyến đường là cả vấn đề. Tuy nhiên, nhờ sự khéo léo của cấp ủy đảng, trong đó uy tín của ông Yên được xem là yếu tố then chốt để tháo gỡ những khó khăn.
Trong hơn 10 năm qua, ông Đào Thế Yên đã cùng cấp ủy đảng vận động người dân hiến hàng nghìn m2 đất, phá dỡ hàng trăm mét tường bao, công trình kiên cố để làm đường giao thông và các công trình. Đến nay, 100% đường giao thông của thôn đã được đổ bê tông với chiều dài 3,8 km. Thôn chỉ còn 5 hộ cận nghèo. Đặc biệt, ông Yên còn vận động bà con trong thôn xóa bỏ tập tục lạc hậu, xây dựng thôn kiểu mẫu. Tháng 3/2023, thôn Vạch được công nhận là thôn kiểu mẫu.
Đầu năm 1980, sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên mặt trận bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc, ông Lò Văn Quang (sinh năm 1962, ở thôn Nậm Chỏn 2, xã Cốc Mỳ, huyện Bát Xát) trở về cuộc sống đời thường. Dù mang trên mình nhiều vết thương nhưng hơn 40 năm qua, ông luôn khắc ghi lời Bác dạy, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ vươn lên vượt qua khó khăn. Là thương binh hạng 1/4, mất 22% sức khỏe nhưng ông Quang vẫn là điển hình trong phát triển kinh tế ở xã vùng biên Cốc Mỳ.
Thương binh Lò Văn Quang bày tỏ: Tôi là người lính, tuy bị thương nhưng còn may mắn hơn rất nhiều đồng đội đã ngã xuống dưới bom đạn của kẻ thù. Từ chiến trường trở về, mang trong mình nhiều vết thương, sức khỏe giảm sút nhưng tôi luôn khắc ghi lời Bác dạy: “Thương binh tàn nhưng không phế”. Vì vậy, tôi và gia đình cố gắng vươn lên, đến bây giờ cuộc sống cũng tạm ổn.
Dù đã có gần 10 năm làm nghề mộc, nhưng ít ai biết, cách thương binh Lò Văn Quang học nghề ban đầu chỉ là nhìn người khác làm, rồi về nhà tự tìm hiểu nghề mộc và làm theo. Cần mẫn với nghề mộc, mỗi năm ông Quang thu nhập vài chục triệu đồng từ đóng bàn, ghế, giường, tủ. Ngoài nghề mộc, gia đình ông còn cấy lúa và chăn nuôi với 5 con trâu, gần 100 con gà, vịt, 250 m2 ao nuôi cá; 3 ha quế đã đến thời kỳ cho thu tỉa cành, lá.
Ông Tẩn A Tần, Bí thư Chi bộ thôn Nậm Chỏn 2 cho biết: Không ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, thương binh Lò Văn Quang luôn nỗ lực, vươn lên phát triển kinh tế. Đặc biệt, ông Quang còn có nhiều đóng góp trong xây dựng nông thôn mới, như hiến đất, cây cối để làm đường điện của thôn, nhận tự quản làm vệ sinh đoạn đường thôn dài 800 m…
Dù trong thời chiến hay thời bình, mỗi gia đình có công là một câu chuyện nhưng tất cả đều có điểm chung là giàu lòng yêu nước và hết lòng phụng sự Tổ quốc. Chính nghị lực, ý chí vươn lên của các thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ và người có công với cách mạng là những tấm gương sáng, động viên, khích lệ, truyền cảm hứng và lan tỏa tinh thần vượt khó vươn lên trong cộng đồng.