Quay về E-magazine Theo dõi Báo Lào Cai trên Google News
Những giám đốc nông dân ở “xứ Mường”

Những giám đốc nông dân ở “xứ Mường”

2.png

Dáng người mảnh khảnh, nước da “nhiều nắng”, mới gặp không ai nghĩ đó là giám đốc một hợp tác xã lớn ở Bản Lầu (Mường Khương). Người tôi nói đến là chị Nguyễn Thị Hà, Giám đốc Hợp tác xã Thịnh Phong. Trước khi trở thành giám đốc, chị Hà là nông dân cần mẫn, mùa nào thức nấy, hết trồng ngô, trồng lúa, rồi trồng dứa đến chăn nuôi gia súc. Tranh thủ thời gian không phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, chị đến các thôn trên địa bàn xã thu mua nông sản cho bà con.

Qua những lần thu mua nông sản, chị Hà nhận thấy tư thương thường ép giá, khiến nông dân đã vất vả lại càng thêm thiệt thòi. “Tôi đã trực tiếp chứng kiến một tư thương “lật kèo” khi họ chấp nhận bỏ 5 triệu đồng tiền đặt cọc mua dứa, “bỏ rơi” nông dân chấp chới với nương dứa chín mà không có người thu mua, thật đau xót” - chị Hà chia sẻ.

3.png

“Vẫn biết làm nông nghiệp chịu nhiều rủi ro nhưng mình cũng từng là nông dân, chẳng nhẽ thấy bà con vất vả mưa nắng đến vụ thu hoạch, không tiêu thụ được nông sản mà khoanh tay đứng nhìn? Suy nghĩ đó đã thôi thúc tôi thành lập Hợp tác xã Thịnh Phong với mục đích liên kết chặt chẽ với nông dân trong việc tiêu thụ nông sản, tránh bị tư thương ép giá”, chị Hà bộc bạch.

Năm 2015, Hợp tác xã Thịnh Phong thành lập do chị Nguyễn Thị Hà làm Giám đốc, hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực: Thu mua nông sản, cung ứng vật tư nông nghiệp, chăn nuôi. Ngay sau khi thành lập hợp tác xã, Giám đốc Hà đã bàn với các thành viên góp vốn xây dựng liên kết chặt chẽ với các hộ trên địa bàn xã, bao tiêu tối đa quả dứa với giá có lợi nhất cho nông dân.

4.png

Nếu như trước khi thành lập Hợp tác xã Thịnh Phong, mỗi vụ dứa, chị Hà chỉ thu mua được 25 - 30 tấn dứa quả/ngày thì nay, hợp tác xã đã thu mua được 70 - 80 tấn dứa quả/ngày, không chỉ ở Bản Lầu mà còn mở rộng lên Lùng Vai.

Để mua được số lượng quả dứa như trên, hợp tác xã phải cạnh tranh với các đơn vị, cá nhân thu mua khác. Tuy nhiên, yếu tố quyết định không hẳn là giá mà là sự gắn kết và tin tưởng của các hộ trồng dứa với hợp tác xã. Theo chia sẻ của nữ Giám đốc Hợp tác xã Thịnh Phong, trong cơ chế thị trường, hợp tác xã cũng là một thành phần kinh tế, hoạt động bình đẳng chứ không có sự ưu ái nào. Do vậy, điều quan trọng nhất là phải tạo được niềm tin với nông dân, thực hiện đúng cam kết và có trách nhiệm chia sẻ với họ.

5.png

Với chủ trương đó, khi vào vụ thu hoạch dứa, Hợp tác xã Thịnh Phong đều thông báo chi tiết, công khai về số lượng, kích cỡ quả, giá thu mua tới các hộ. Khi người dân mang dứa đến, hợp tác xã đều thu mua hết. Mặt khác, hợp tác xã không “tranh mua, tranh bán” mà luôn thu mua với giá hợp lý nhất để không gây thiệt thòi cho nông dân. Hơn nữa, khi thị trường tiêu thụ khó khăn, Hợp tác xã Thịnh Phong vẫn đứng ra thu mua, không để dứa chín bỏ trên nương.

Dù gắn bó với nương đồi nhưng khi làm giám đốc, chị Hà rất nhạy bén. Điều đầu tiên chị nghĩ đến và triển khai ngay đó là đưa quả dứa Mường Khương vào siêu thị lớn ở Hà Nội và các chợ đầu mối tại Bắc Ninh, Hà Nội, Phú Thọ, Tuyên Quang. Cùng với đó, Hợp tác xã Thịnh Phong trực tiếp cung cấp dứa quả cho các nhà máy chế biến tại Nam Định, Hưng Yên, Thanh Hóa. Nhờ vậy, mỗi vụ dứa, Hợp tác xã Thịnh Phong tiêu thụ 5.000 tấn quả dứa cho nông dân Bản Lầu và Lùng Vai.

Với khả năng chiếm lĩnh thị trường cùng sự nhạy bén về kinh doanh của Giám đốc Nguyễn Thị Hà, Hợp tác xã Thịnh Phong đã có bước phát triển mạnh. Năm đầu mới thành lập, vốn cố định của hợp tác xã hơn 1 tỷ đồng, nay tăng lên hơn 10 tỷ đồng; thu nhập bình quân của xã viên từ 12 - 15 triệu đồng/tháng…

6.png

Từng có 4 năm làm việc tại doanh nghiệp viễn thông nhưng anh Nguyễn Mạnh Thắng vẫn quyết định rời bỏ bởi anh thích làm… nông dân. Khi còn học trung học cơ sở đến trung học phổ thông, anh vẫn thường xuyên giúp bố mẹ lên đồi thu hái chè. Màu xanh mướt của những đồi chè cùng hương thơm dịu nhẹ tỏa ra từ những búp chè xanh non đã khiến anh nặng lòng với thứ cây đã giúp gia đình mình vượt qua khó khăn, có nguồn thu để trang trải cuộc sống. Đặc biệt, chi phí học tập 4 năm đại học của anh Thắng cũng nhờ vào đồi chè của gia đình. Vì thế, anh đã quyết định khởi nghiệp bằng chính cây chè.

746E4A65-2ECD-4E00-9058-B52EFC0636A5.png

Những ngày đầu trở về làm nông dân, anh Thắng cùng với mọi người trong gia đình lên đồi thu hái chè, từ sáng đến chiều, rồi gùi chè xuống tận chân đồi, bán cho tư thương. Dù đã thu hái theo đúng kỹ thuật nhưng tư thương vẫn gây khó dễ, hạ phẩm cấp chè, dẫn đến giá bán không cao. Sau nhiền lần như vậy, anh bàn với một số anh em, quyết định thành lập Hợp tác xã Bản Sen (Mường Khương) và anh giữ chức vụ phó giám đốc nhưng thực tế là điều hành như giám đốc. Sau khi thành lập, Hợp tác xã Bản Sen đã xây dựng Nhà máy chế biến chè xuất khẩu Bản Sen với công suất 50 tấn chè búp tươi/ngày, tổng kinh phí đầu tư hơn 8 tỷ đồng. Với những trải nghiệm và kiến thức thực tế, anh Thắng không khó để xây dựng vùng nguyên liệu, liên kết với bà con để thu mua chè búp tươi.

Từ khi đi vào hoạt động, trung bình mỗi tháng, Nhà máy chế biến chè xuất khẩu Bản Sen sản xuất 60 tấn chè búp khô sang thị trường Pakistan và Afghanistan. Nhà máy đã tạo việc làm cho 20 lao động địa phương với thu nhập từ 6 - 9 triệu đồng/người/tháng. Điều quan trọng hơn cả, nhà máy đã giải quyết bài toán đầu ra cho chè búp tươi của cả vùng Bản Sen với giá thu mua hợp lý.

8.png

Thành công nào mà không phải trải qua thất bại. Điều này hoàn toàn đúng với anh Nguyễn Mạnh Thắng, bởi khi nhà máy đi vào hoạt động, đúng thời điểm xảy ra đại dịch Covid-19, toàn bộ sản phẩm gần như không xuất khẩu được, trong khi đến vụ thu hoạch, hợp tác xã vẫn phải đảm bảo thu mua cho bà con. Điều đó dẫn đến có thời điểm Hợp tác xã Bản Sen dường như “kiệt sức”, có nguy cơ đóng cửa. Tuy nhiên, với nỗ lực và quyết tâm rất lớn của cả tập thể nói chung và của anh Nguyễn Mạnh Thắng nói riêng, đồng thời đại dịch Covid-19 được kiểm soát, Hợp tác xã Bản Sen đã vượt qua cơn bĩ cực, sản xuất ổn định trở lại và ngày càng có nhiều đơn hàng xuất khẩu. Vì vậy, theo chia sẻ của Phó Giám đốc Nguyễn Mạnh Thắng, thời gian tới, Nhà máy chế biến chè xuất khẩu Bản Sen sẽ nâng công suất lên 60 tấn chè búp tươi/ngày.

Ngoài chị Nguyễn Thị Hà, anh Nguyễn Mạnh Thắng, trên địa bàn huyện Mường Khương còn có anh Trần Văn Hùng, Giám đốc Hợp tác xã sản xuất và tiêu thụ nông sản Châu Thịnh Phong; chị Vàng Thị Hoa, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp tổng hợp và tiêu thụ nông sản; chị Hà Thị Tuyến, Giám đốc Công ty TNHH Mường Hoa… Những giám đốc nông dân này là những hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp cũng như xây dựng liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với nông dân trên con đường làm giàu.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Xã Cao Sơn: Người dân bất an vì nỗi lo sạt lở, đá lăn

Xã Cao Sơn: Người dân bất an vì nỗi lo sạt lở, đá lăn

Vết nứt lớn có nguy cơ sạt lở cùng với những tảng đá nặng hàng tấn lơ lửng trên sườn núi chỉ chực chờ lăn xuống bất cứ lúc nào, đe dọa cuộc sống của 37 hộ dân với gần 200 nhân khẩu tại các thôn Sảng Lùng Chéng và Sả Lùng Chéng (xã Cao Sơn) khiến bà con mất ăn, mất ngủ. Người dân mong muốn sớm được di chuyển đến nơi an toàn để yên tâm sinh sống, lao động sản xuất.

Lào Cai: Nông nghiệp tăng trưởng 4,76%/năm trong 5 năm

Lào Cai: Nông nghiệp tăng trưởng 4,76%/năm trong 5 năm

Giai đoạn 2020 - 2025, ngành nông nghiệp tỉnh Lào Cai tiếp tục khẳng định vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 4,76%/năm, cao hơn mức chung cả nước. Kết quả này đến từ sự chuyển đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, gắn với thị trường, chuỗi giá trị và phát triển bền vững.

Sức bật mới từ tái cơ cấu nông nghiệp ở Púng Luông

Sức bật mới từ tái cơ cấu nông nghiệp ở Púng Luông

Vốn là địa bàn vùng cao với trên 94% đồng bào dân tộc Mông sinh sống, xã Púng Luông đang có những bước chuyển mình rõ rệt. Thay vì tập quán canh tác thuần nông, tự cung tự cấp, xã đã định hướng phát triển các mô hình sản xuất tập trung, giúp người dân nâng cao thu nhập và mở hướng giảm nghèo bền vững.

“Lá chắn xanh” nơi rừng đầu nguồn

“Lá chắn xanh” nơi rừng đầu nguồn

Cùng với việc trồng và phát triển rừng thì công tác giữ rừng cũng góp phần quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và duy trì hệ sinh thái. Ở các xã vùng cao, rừng được bảo vệ nhờ phát huy vai trò của các tổ xung kích bảo vệ rừng. Đây là lực lượng đại diện cho cộng đồng, tham gia tích cực và hiệu quả nhất trong công tác bảo vệ rừng.

Hoàn thành rà soát, phân loại dữ liệu hơn 5 triệu thửa đất tại Lào Cai

Hoàn thành rà soát, phân loại dữ liệu hơn 5 triệu thửa đất tại Lào Cai

Thực hiện Kế hoạch số 515/KH-BCA-BNN&MT ngày 31/8/2025 của Bộ Công an và Bộ Tài nguyên và Môi trường về triển khai Chiến dịch 90 ngày làm sạch dữ liệu đất đai, Sở Tài nguyên và Môi trường Lào Cai đã chỉ đạo quyết liệt các đơn vị chuyên môn, phối hợp với địa phương để triển khai đồng bộ nhiệm vụ.

Phát triển bền vững cây dược liệu Việt

Phát triển bền vững cây dược liệu Việt

Hiện nay, tại nhiều địa phương, cây dược liệu đang trở thành một lựa chọn chiến lược không chỉ giúp xóa đói, giảm nghèo mà còn góp phần tạo diện mạo mới cho nông thôn, giúp nâng cao thu nhập, bảo tồn bản sắc y học dân tộc.

Tà Lành vượt khó xây dựng nông thôn mới

Tà Lành vượt khó xây dựng nông thôn mới

Địa hình thôn Tà Lành, xã Gia Hội (tỉnh Lào Cai) chủ yếu là đồi núi cao, đời sống người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông, lâm nghiệp kết hợp... Dù còn nhiều khó khăn nhưng đồng bào dân tộc Dao, dân tộc Mông ở Tà Lành quyết tâm vượt khó để hoàn thành xây dựng nông thôn mới.

Mỏ Vàng hướng tới sự phát triển toàn diện

Mỏ Vàng hướng tới sự phát triển toàn diện

Sau khi hợp nhất, xã Mỏ Vàng đã cụ thể hóa các mục tiêu nâng cao chỉ số hạnh phúc, tập trung phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh và cải thiện môi trường sống; phấn đấu hết năm 2025, tỷ lệ lao động trong độ tuổi qua đào tạo đạt 65%, tăng 12% so với năm 2020, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng chứng chỉ đạt 30%, tăng 8% so với năm 2020; giải quyết việc làm mới cho trên 825 lao động, tăng 15% so với năm 2020, phấn đấu thu nhập bình quân đầu người đến năm 2030 đạt 60 triệu đồng.

“Chìa khóa" nâng tầm nông sản vùng cao

“Chìa khóa" nâng tầm nông sản vùng cao

Trong bối cảnh nông nghiệp Lào Cai bước vào giai đoạn phát triển mới, hướng đến sản xuất hàng hóa chất lượng cao, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, việc nâng cao năng lực hợp tác xã (HTX) nông nghiệp trở thành yêu cầu tất yếu. Tăng cường kiến thức quản trị, ứng dụng công nghệ số và chế biến hiện đại không chỉ giúp HTX thoát khỏi tư duy sản xuất nhỏ lẻ, còn là “chìa khóa” gia tăng giá trị, đưa nông sản vùng cao vươn xa, hội nhập bền vững.

Nhà sáng chế máy nông nghiệp không bằng cấp

Nhà sáng chế máy nông nghiệp không bằng cấp

Từ một thợ sửa xe máy ở vùng quê ngoại thành Hà Nội, bằng sự kiên trì và niềm đam mê sáng chế, Tạ Đình Huy đã tạo ra những chiếc máy nông nghiệp đa năng, giúp thay đổi phương thức canh tác của nhiều nông hộ. Anh đã góp phần biến giấc mơ cơ giới hóa nông thôn thành hiện thực.

Bước đột phá trong chế biến gỗ rừng trồng

Bước đột phá trong chế biến gỗ rừng trồng

Nhiều năm qua, ngành chế biến gỗ của Lào Cai vẫn chủ yếu xuất khẩu thô, giá trị thấp. Nắm được thực trạng đó, từ cuối năm 2022, Công ty Cổ phần Yên Thành (xã Yên Bình) đã triển khai Dự án “Ứng dụng khoa học và công nghệ sản xuất gỗ ghép khối từ ván bóc gỗ rừng trồng” với sự đồng hành chuyển giao công nghệ của Viện Nghiên cứu công nghiệp rừng.

Giữ "hộ chiếu xanh" cho nông sản

Giữ "hộ chiếu xanh" cho nông sản

Việc Lào Cai được cấp 130 mã số vùng trồng cho các nông sản chủ lực được ví như tấm “hộ chiếu xanh”, mở ra cơ hội xuất khẩu, đặc biệt là vào thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, việc duy trì và tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn khắt khe đang là thách thức không nhỏ, đòi hỏi sự thay đổi toàn diện từ tư duy đến hành động của mỗi nông dân và hợp tác xã.

fb yt zl tw