Trời lất phất mưa, nhưng trên triền chè đã đến kỳ thu hái, vợ chồng chị Lù Thị San, thôn Pạc Ngam, xã Nấm Lư (huyện Mường Khương) vẫn cặm cụi thu hoạch những búp non. Chăm sóc chè suốt mấy năm qua, sau những lứa thu rải rác, hôm nay cây chè mới bắt đầu trở thành nguồn thu chính cho gia đình chị.
Chị San tâm sự, gia đình chị thuộc hộ nghèo, trước đây khi chưa trồng chè, khu vực này chỉ trồng ngô, lúa với những vụ mùa bấp bênh do khí hậu khắc nghiệt. Gia đình chị mong mỏi tìm hướng thoát nghèo nhưng vẫn loay hoay chưa tìm được cây trồng, vật nuôi phù hợp. Cách đây vài năm, khi nghe cán bộ, đảng viên của thôn triển khai chủ trương của huyện, xã, được tuyên truyền, vận động và hướng dẫn, gia đình chị San đăng ký trồng chè.
Cùng chúng tôi đến nương chè của bà con trong thôn, Bí thư Chi bộ thôn Pạc Ngam - Lù Thị Rích cho hay, thôn hiện có 98 hộ, hơn 470 nhân khẩu, trong đó đồng bào Nùng chiếm trên 98%. Năm 2020, khi Nghị quyết 10 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Chiến lược phát triển nông nghiệp hàng hóa tỉnh Lào Cai đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được triển khai, chi bộ thôn đã họp, đưa mục tiêu phát triển cây chè vào nghị quyết hằng năm. Chi bộ cũng thống nhất việc phân công nhiệm vụ tuyên truyền, vận động và nêu gương trong việc đưa cây chè vào sản xuất cho các tổ chức đoàn thể, đảng viên phụ trách nhóm hộ. Việc nắm tình hình, tiến độ triển khai, kịp thời tháo gỡ khó khăn cũng được chi bộ họp, đánh giá và thực hiện thường xuyên.
Nhờ đó, bà con trong thôn dần tháo bỏ tâm lý lo lắng, e ngại về tương lai của cây trồng mới. Minh chứng là năm 2020 khi bắt đầu triển khai, cả thôn chỉ có 2 hộ tham gia, mỗi hộ trồng 0,3 ha chè. Đến nay, hầu hết các hộ tham gia, vùng chè ở thôn mở rộng lên 30 ha, nhiều hộ bắt đầu có nguồn thu ổn định và thêm tin tưởng, gắn bó với cây trồng này. Điều đó cho thấy vai trò của tổ chức đảng ở thôn Pạc Ngam trong việc đưa nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống.
Cụm thôn Mo, xã Xuân Hòa (huyện Bảo Yên) là nơi sinh sống của gần 200 hộ đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó đồng bào Mông chiếm phần lớn. Nhằm tiếp nguồn lực để người dân ở đây vươn lên, Huyện ủy Bảo Yên ban hành kế hoạch xây dựng mô hình dân vận khéo “Hỗ trợ sinh kế, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc” tại địa bàn này.
Thực hiện kế hoạch, Đảng ủy xã tổ chức họp, phân công cụ thể từng nội dung, phần việc; tổ chức nắm tình hình ở cơ sở; tham gia họp, lấy ý kiến người dân các thôn Mo 1, Mo 2 về lựa chọn các cây, con giống phù hợp với thực tế, kết nối hỗ trợ tiêu thụ nông sản; tạo sự đồng thuận cao trong Nhân dân trong thực hiện một số nội dung thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng. Kế hoạch hỗ trợ triển khai ở nhiều lĩnh vực, do vậy, Đảng ủy xã phải chủ động phương án, giải pháp cụ thể để hoàn thành từng nội dung theo thứ tự ưu tiên. Đối với cấp ủy đảng ở 2 thôn Mo 1, Mo 2, Đảng ủy xã quán triệt, yêu cầu các chi bộ phát huy vai trò lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện của các chi hội, đoàn thể ở thôn; phát huy vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng mô hình, đáp ứng nguyện vọng của người dân.
Đây chỉ là 2 minh chứng cho thấy vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua. Lào Cai là tỉnh vùng cao, biên giới, có trên 66% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số. Toàn tỉnh hiện có 138/152 xã, phường, thị trấn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi; có 326 tổ chức cơ sở đảng (gồm 198 đảng bộ cơ sở, 128 chi bộ cơ sở), 1 đảng bộ bộ phận và hơn 2.200 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở ở vùng dân tộc thiểu số.
Ông Ngô Hữu Quý, Phó Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy đánh giá, trong những năm qua, các tổ chức đảng vùng dân tộc thiểu số đã phát huy tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo đối với việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Cấp ủy các cấp đã chỉ đạo tập trung đầu tư nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế, sản xuất và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Tổ chức đảng ở vùng dân tộc thiểu số ngày càng phát huy vai trò là hạt nhân chính trị, cầu nối giữa Đảng với Nhân dân. Điều đó đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi diện mạo của địa phương, nâng cao chất lượng đời sống của đồng bào các dân tộc.
Để phát huy hơn nữa vai trò của tổ chức đảng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong thời gian tới, cấp ủy các cấp cần thường xuyên củng cố, kiện toàn, sắp xếp các tổ chức đảng vùng dân tộc thiểu số phù hợp với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị. Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy. Đồng thời lựa chọn, phân công cấp ủy cấp trên am hiểu phong tục, tập quán vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo dõi, lãnh đạo, chỉ đạo các mặt hoạt động tại các tổ chức đảng vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Lựa chọn đảng viên có uy tín, năng lực để làm bí thư chi bộ thôn, bản, tổ dân phố; từng bước nâng cao tỷ lệ bí thư chi bộ kiêm trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố.
Cùng với đó, cần nâng cao hơn nữa chất lượng sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt chuyên đề của cấp ủy đảng các cấp. Thực hiện nghiêm quy định về phân công cấp ủy viên các cấp theo dõi, phụ trách cơ sở nắm tình hình tổ chức cơ sở đảng, chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở, đảng viên theo dõi, phụ trách hộ gia đình ở vùng dân tộc thiểu số…